Tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2022

Thứ hai - 04/07/2022 15:44
Trong 6 tháng đầu năm 2022, tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước ổn định tiếp tục phục hồi duy trì những kết quả quan trọng đã đạt được trong năm 2021; kinh tế, thương mại từng bước tăng trưởng trở lại, nhất là lĩnh vực công nghiệp - xây dựng, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo định hướng xuất khẩu, sự gia tăng đầu tư và mở rộng các hoạt động thương mại... Tuy nhiên, trong điều kiện nhiều thuận lợi cơ bản cũng như không ít những khó khăn, thách thức đan xen, nhất là tình hình dịch bệnh Covid-19 tuy đã được kiểm soát và bao phủ vắc-xin nhưng lây lan dịch bệnh vẫn còn tiếp diễn đã có những ảnh hưởng nhất định đến quá trình khôi phục kinh tế - xã hội.

Nhằm tạo nền tảng, động lực phát triển bền vững hơn, thích ứng an toàn trong điều kiện mới, ngay từ đầu năm, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Bình Phước đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành và địa phương triển khai thực hiện quyết liệt các giải pháp quyết tâm phục hồi phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội, phấn đấu thực hiện tốt các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ năm 2022. Với tinh thần nỗ lực phấn đấu cao nhất, kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2022 đạt được những kết quả tích cực. 

Trên cơ sở rà soát, đánh giá lại số liệu kinh tế - xã hội 5 tháng đầu năm, ước tính kết quả thực hiện một số chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2022 như sau:

I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) 6 tháng đầu năm 2022 ước tính tăng 6,91% (quý I tăng 3,83%; quý II tăng 10,17%) so với cùng kỳ năm 2021. Tăng trưởng kinh tế tỉnh 6 tháng đầu năm đứng thứ 2 vùng Đông nam bộ, thứ 3 so với Tây nam bộ, thứ 4 so với Tây nguyên và thứ 35 so với cả nước.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm 2022 ước tính giảm  1,21% so với cùng kỳ năm trước (quý I giảm 6,14%; quý II tăng 5,01%).

Khu vực công nghiệp - xây dựng ước tính 6 tháng đầu năm 2022 tăng 18,70% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 18,01%; quý II tăng 19,35%).

Ngành công nghiệp tỉnh Bình Phước 6 tháng đầu năm 2022 tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực, cùng với sự vào cuộc quyết liệt của tỉnh trong chỉ đạo, điều hành và triển khai các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, mức đạt 21,75% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 21,18%; quý II tăng 22,30%), chủ yếu tăng mạnh các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (quý I tăng 22,96%; quý II tăng 23,82%).

Khu vực dịch vụ 6 tháng đầu năm 2022 tiếp tục chịu ảnh hưởng tiêu cực từ dịch Covid-19, nhất là các ngành, lĩnh vực: vận tải hành khách, Du lịch, khách sạn, nhà hàng, văn hóa, thể thao, vui chơi, giải trí… Ước tính tăng trưởng khu vực dịch vụ 6 tháng đầu năm 2022 tăng 3,88% (quý I tăng 1,55%; quý II tăng 6,18%). 

Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 6 tháng đầu năm 2022 ước giảm 2,06% (quý I giảm 5,78%; quý II tăng 2,17%). 

Về cơ cấu nền kinh tế 6 tháng đầu năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 24,05%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 42,96%; khu vực dịch vụ chiếm 29,22%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 3,77%.
tong san pham

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh Bình Phước 6 tháng đầu năm 2022 có nhiều tín hiệu khả quan; thời tiết tương đối thuận lợi cho sản xuất lúa và cây màu; năng suất lúa cao hơn cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi gia súc, gia cầm ổn định, dịch bệnh được kiểm soát; việc tái đàn lợn được quan tâm. Công tác trồng rừng, bảo vệ và phòng chống cháy rừng được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện.

2.1. Nông nghiệp
a. Trồng trọt 

Tính đến ngày 15/6/2022, tình hình sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh ước thực hiện, cụ thể như sau: cây lúa 5.999 tăng 0,84% (+50 ha) so với cùng kỳ năm trước; cây bắp 326 ha, giảm 15,32% (-59 ha); khoai lang 43 ha, giảm 23,21%; khoai mỳ 1.022 ha, giảm 7,43%; cây mía 67 ha, tăng 1,52% (+1 ha); rau, đậu các loại 1.535 ha, tăng 18,98% (+245 ha) so cùng kỳ.

Vụ Đông Xuân năm 2021 - 2022 ước tính diện tích gieo trồng các loại cây hàng năm đạt 6.996 ha, tăng 6,52% (+429 ha) so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Diện tích lúa gieo trồng được 2.816 ha, tăng 0,64% (+18 ha); năng suất ước đạt 38,80 tạ/ha, tăng 0,06 tạ/ha; sản lượng đạt 10.928 tấn, tăng 88 tấn; Cây ngô 326 ha, bằng 84,68% (-59 ha); năng suất đạt 44,99 tạ/ha, tăng 0,85 tạ/ha; sản lượng đạt 1.469 tấn, giảm 229 tấn; Khoai lang gieo trồng được 43 ha, bằng 76,79 ha, giảm 13 ha; năng suất đạt 54,69 tạ/ha, tăng 4,97 tạ/ha; Rau các loại 1.456 ha, tăng 19,44% (+237 ha); năng suất đạt 73,96 tạ/ha, tăng 2,11 tạ/ha; sản lượng đạt 10.771 tấn, tăng 2.009 tấn; Đậu các loại 66 ha, tăng 17,86% (+10 ha), năng suất đạt 8,29 tạ/ha, giảm 0,81 tạ/ha, sản lượng đạt 55 tấn, tăng 4 tấn so với cùng kỳ năm trước.

Năng suất cây trồng vụ Đông Xuân tăng so với cùng kỳ do diễn biến thời tiết nông vụ nhìn chung thuận lợi cho quá trình sinh trưởng và phát triển của cây. Bên cạnh đó, các địa phương làm tốt công tác bảo vệ thực vật, hướng dẫn kịp thời bà con nông dân các biện pháp phòng trừ sâu bệnh.

Đối với cây lâu năm: Các loại cây lâu năm của tỉnh phát triển ổn định, trong tháng 6 cây cao su đã vào mùa khai thác và đa số các loại cây ăn quả cũng đã và đang thu hoạch. Tổng diện tích cây lâu năm của tỉnh ước tính có 438.987 ha, tăng 1,93% (+8.298 ha) so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Cây ăn quả các loại 12.591 ha, chiếm 2,87% trong tổng diện tích cây lâu năm, tăng 2,35% (+289 ha) so với cùng kỳ. Diện tích các loại cây ăn quả tăng, nguyên nhân chính là do số diện tích cho năng suất thấp đã được thay thế bằng các loại giống mới có năng suất chất lượng cao.

Cây công nghiệp lâu năm chủ lực của tỉnh 426.097 ha, chiếm 97,06%, tăng 1,91% (+7.984 ha) so với cùng kỳ năm 2021. Chia ra: cây điều hiện có 151.124 ha, tăng 9.632 ha, sản lượng ước đạt 170.500 tấn, giảm 65.110 tấn; cây hồ tiêu hiện có 14.958 ha, giảm 787 ha, sản lượng ước đạt 30.100 tấn, tăng 2.324 tấn; cây cao su 245.304 ha, giảm 963 ha, sản lượng ước đạt 122.093 tấn, tăng 3.555 tấn; cây cà phê 14.601 ha, tăng 94 ha, sản lượng cà phê 6 tháng đầu năm chưa có. 

Các loại cây công nghiệp lâu năm tỉnh Bình Phước vẫn tiếp tục rà soát thống kê diện tích bị xâm canh trong đất lâm phần. Diện tích tiêu và cao su giảm mạnh để chuyển sang trồng các loại cây ăn trái, cây cà phê và điều ổn định; Năng suất, sản lượng cây điều năm 2022 giảm mạnh so với vụ điều năm 2021 nguyên nhân chủ yếu là do năm nay mưa trái mùa nhiều trong lúc điều ra bông tỷ lệ đậu trái thấp.

Tình hình sâu bệnh: Công tác bảo vệ thực vật đã được các cấp, các ngành quan tâm, trong 6 tháng đầu năm trên cây trồng chủ lực của tỉnh có xuất hiện một số loài sâu bệnh nhưng ở mức nhẹ, ảnh hưởng không đáng kể đến sinh trưởng và phát triển cây trồng.

Giá một số hàng nông sản và hàng hóa trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong tháng 5/2022 như sau: Giá rau ăn lá khoảng 11.000 - 13.000 đồng/kg; rau ăn quả các loại 14.000 - 18.000 đồng/kg; cam, quýt khoảng 15.000 - 19.000 đồng/kg; bưởi khoảng 18.000 - 22.000 đồng/kg; Chuối từ 10.000-14.000 đồng/kg; Mủ cao su sơ chế 35.065 đồng/kg, cà phê nhân 41.690 đồng/kg, hạt điều khô 31.046 đồng/kg, hạt tiêu khô 81.446 đồng/kg.
nong nghiep

b. Chăn nuôi 

Chăn nuôi công nghiệp gắn chuỗi giá trị tiếp tục phát triển cả về quy mô và tổ chức sản xuất, thu hút các tập đoàn lớn đến đầu tư như: CP, JAPFA, DABACO, NEW HOPE. Tổng đàn gia súc, gia cầm phát triển theo hướng xây dựng cơ sở an toàn dịch bệnh. Trong 6 tháng đầu năm 2022, chăn nuôi trâu, bò trên địa bàn nhìn chung ổn định. Đàn trâu hiện có 13.531 con, tăng 0,98% so với cùng kỳ năm trước do một số cơ sở chăn nuôi đầu tư tăng đàn nhằm phục vụ nhu cầu xuất khẩu; đàn bò 39.164 con, tăng 0,16%. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước tính đạt 586 tấn, tăng 6,81% so với cùng kỳ so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thịt bò đạt 1.428 tấn, tăng 1,29% so với cùng kỳ.

Chăn nuôi lợn trên địa bàn trong 6 tháng đầu năm nay đã có dấu hiệu phục hồi và phát triển; hoạt động tái đàn được chú trọng, bệnh dịch tả lợn châu Phi còn xảy ra rải rác ở một số hộ chăn nuôi . Đàn lợn hiện có 1.680.545 con, tăng 44,26% so cùng kỳ; sản lượng xuất chuồng ước đạt 78.630 tấn, tăng 17,36% so với cùng kỳ.

Chăn nuôi gia cầm đạt khá. Tuy nhiên giá thức ăn chăn nuôi tăng cao đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc đầu tư, mở rộng sản xuất của các cơ sở chăn nuôi trên địa bàn. Đàn gia cầm hiện có 12.355 ngàn con, tăng 64,98% so cùng kỳ năm trước, trong đó đàn gà đạt 11.700 ngàn con, tăng 63,89%; sản lượng thịt gia cầm hơi xuất chuồng 6 tháng đầu năm ước tính đạt 12.800 tấn, tăng 10,65%; sản lượng trứng gia cầm xuất bán đạt 112.521 ngàn quả, giảm 12% so với cùng kỳ năm trước. 

2.2. Lâm nghiệp 

Trong 6 tháng năm 2022 là những tháng cao điểm của mùa khô, các ngành chức năng trên địa bàn tỉnh duy trì thực hiện công tác tuyên truyền về bảo vệ rừng và phòng cháy chữa cháy rừng. Nhờ làm tốt công tác phòng chống cháy rừng, nên từ đầu năm đến nay trên địa bàn tỉnh không để xảy ra vụ cháy rừng. 

Trồng rừng: 6 tháng đầu năm 2022 chưa thực hiện được công tác trồng rừng do lượng mưa chưa đều để trồng rừng, các đơn vị được giao trồng rừng đang xử lý thực bì, cày đất để chuẩn bị trồng mới cây lâm nghệp.

Trong các tháng mùa khô năm 2022, thời tiết trên địa bàn tỉnh hanh, khô và nắng nóng trên diện rộng, các hiện trạng rừng trên địa bàn tỉnh luôn có nguy cơ cháy rừng ở cấp IV đến cấp V, do đó lực lượng Kiểm lâm đã tập trung vào công tác phòng cháy chữa cháy rừng, bố trí lực lượng trực PCCCR và tăng cường tuần tra tại các khu vực được xác định là trọng điểm có khả năng xảy ra cháy rừng như các dự án quy hoạch điện mặt trời, rừng tự nhiên tại Khu Di tích Bộ Chỉ huy Miền Tà Thiết, rừng trồng Keo lai; phối hợp với Ban QLRPH Bù Đốp, Ban QLRPH Tà Thiết, Lộc Ninh phát dọn 35 km đường băng cản lửa; phát dọn đường băng cản lửa dọc các tuyến đường tuần tra biên giới trên địa bàn huyện Bù Đốp và các tuyến đường tuần tra bảo vệ rừng trên địa bàn huyện Đồng Phú; phát dọn ranh phòng cháy dọc theo tuyến đường đi qua lâm phần VQG Bù Gia Mâp; tiếp nước vào các hồ, bồn chứa nước cố định; chủ động phương tiện, trang thiết bị sẵn sàng chữa cháy rừng nếu có cháy rừng xảy ra.

Về khai thác, trong 6 tháng toàn tỉnh ước tính khai thác được 5,9 nghìn m3 gỗ (+0,23 nghìn m3) so với cùng kỳ; lượng củi khai thác ước đạt 722 Ste (-8 Ste).

2.3. Thủy sản 

Tình hình nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh vẫn được duy trì ổn định, không xảy ra dịch bệnh. Tiếp tục duy trì diện tích nuôi trồng thủy sản với 1.300 ha hiện có (trong đó chủ yếu là diện tích nuôi cá). Hiện nay, bên cạnh việc đưa các giống cá chất lượng, có năng suất và hiệu quả kinh tế cao như trắm, chép lai... vào sản xuất nhằm đáp ứng theo nhu cầu thị trường, các cơ sở nuôi trồng thủy sản, đặc biệt tại các vùng chuyên canh đang mở rộng việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất theo hướng an toàn góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm thủy sản nuôi trồng.

Tổng sản lượng thủy sản 6 tháng đầu năm ước đạt sản lượng thủy sản thu được ước đạt 1.642 tấn, giảm 27,97% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản khai thác đạt 167 tấn, tăng 3%; Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 1.475 tấn, giảm 29%. 

Nhìn chung lĩnh vực thủy sản tỉnh Bình Phước có xu hướng ngày càng giảm về diện tích do đô thị hóa nhanh, diện tích nuôi trồng thủy sản của tỉnh phân bố không đồng đều, phần lớn diện tích nuôi trồng nhỏ, lẻ nuôi trồng để tự tiêu là chính, ít có diện tích nuôi lớn, sản xuất mang tính hàng hóa nên hàng năm hiệu qủa thu được trên một đơn vị diện tích nuôi trồng thủy sản là không cao.

2.4. Kinh tế hợp tác, liên kết trong nông nghiệp; kinh tế trang trại

Kinh tế hợp tác, liên kết sản xuất: Toàn tỉnh vẫn duy trì 185 Hợp tác xã và 01 liên hiệp HTX nông, lâm nghiệp đang còn hoạt động trên địa bàn. Có 86 THT hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và 496 trang trại (trong đó: có 302 trang trại trồng trọt và 193 trang trại chăn nuôi).

Kinh tế trang trại: Theo thông tư số 02/2020/TT-BNNPTNT ngày 28 tháng 02 năm 2020 qui định về tiêu chí trang trại, trên địa bàn tỉnh Bình Phước hiện có 496 trang trại, trong đó: Loại hình trang trại trồng trọt có 302 trang trại, chiếm 60,89%; loại hình trang trại chăn nuôi có 193 trang trại, chiếm 38,91%. Chia theo các đơn vị huyện, thị xã, thành phố: Thị xã Phước Long có 9 trang trại; thành phố Đồng Xoài có 10 trang trại; thị xã Bình Long có 15 trang trại; huyện Bù Gia Mập có 28 trang trại; huyện Lộc Ninh có 50 trang trại; huyện Bù Đốp có 13 trang trại; huyện Hớn Quản có 103 trang trại; huyện Đồng Phú có 40 trang trại; huyện Bù Đăng có 108 trang trại; huyện Chơn Thành có 82 trang trại; huyện Phú Riềng có 38 trang trại.

2.5. Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới

Số huyện, thành phố, thị xã hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới: 03 huyện (TP. Đồng Xoài; thị xã Phước Long; thị xã Bình Long); Số xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới là 70 xã; Số xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao 8 xã; Số tiêu chí đạt toàn tỉnh đến tháng hết tháng 5/2022 là 18,02 tiêu chí. Phân theo nhóm tiêu chí: xã đạt 19 tiêu chí 70 xã; xã đạt từ 15 - 18 tiêu chí 7 xã; xã đạt từ 11 -14 tiêu chí 13 xã; toàn tỉnh không còn xã dưới 11 tiêu chí. Chỉ tiêu năm 2022 có thêm 7 xã về đích nông thôn mới và 9 xã về đích nông thôn mới nâng cao.

3. Sản xuất công nghiệp 

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 6 tháng đầu năm 2022 đang phục hồi và tăng trưởng hơn so với cùng kỳ năm trước, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục xu hướng phát triển chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu toàn ngành. 

Chỉ số sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tháng 6 ước tính tăng 17,51% so cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 18,93%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt & nước nóng tăng 3,10%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,39%. Riêng ngành công nghiệp khai khoáng giảm 3,71% do điều kiện khai thác ngày càng khó khăn, tài nguyên suy giảm, chi phí tăng cao.
chi so IIP

Ước tính quý II/2022 chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 22,81% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 24,62%; sản xuất và phân phối điện tăng 3,36%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,78%; khai khoáng giảm 2,69%. Một số ngành chế biến, chế tạo có chỉ số IIP quý II tăng cao so với cùng kỳ như: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 53,58%; Sản xuất chế biến thực phẩm 31,88%; Sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 24,93%; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 21,09% và Sản xuất đồ uống tăng 8,36%.

Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 22,05% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 21,21%, quý II tăng 22,81%). Trong các ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tăng 23,72%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,84%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,07%; ngành khai khoáng giảm 6,49% so với cùng kỳ năm trước. 

Trong 6 tháng đầu năm nay, hầu hết các ngành chế biến, chế tạo có chỉ số IIP tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số ngành đạt mức tăng cao như: Sản xuất máy móc, thiết bị chưa được phân vào đâu tăng 50,32%; Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 40,27%; Sản xuất chế biến thực phẩm tăng 31,73%; Sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 15,44%; Sản xuất đồ uống tăng 10,38% và Sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 10,25%... Một số ngành có mức giảm: Sản xuất trang phục giảm 30,22%; In, sao chép bản ghi các loại giảm 22,91%; Sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 21,79%; Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 21,46% và Sản xuất xe có động cơ giảm 12,09%.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu 6 tháng đầu năm tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Dịch vụ sản xuất giày, dép tăng 30,17%; Dịch vụ sắp chữ in (khuôn in) hoặc trục lăn và các phương tiện truyền thông đại chúng dùng trong in tăng 129,05%; Dịch vụ sản xuất linh kiện điện tử tăng 40,27%; Các loại van khác chưa được phân vào đâu tăng 50,32%; Dịch vụ hoàn thiện đồ nội thất mới bằng gỗ và bằng các vật liệu tương tự tăng 141,06%; hạt điều khô tăng 125,73%... Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm: Sản phẩm in khác (quy khổ 13cmx19cm) giảm 77,40%; Gỗ cưa hoặc xẻ (trừ gỗ xẻ tà vẹt) giảm 68,18%; Vải dệt nổi vòng, vải sonin từ sợi nhân tạo giảm 41,66%; Dịch vụ sản xuất tấm, phiến, ống và cỏc mặt nghiờng bằng plastic giảm 48,93%; Quần áo lót cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc giảm 35,76%...

 Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước đến 30/6/2022 giảm 16,74% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho tăng, giảm như sau: sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 16,74%; sản xuất chế biến thực phẩm giảm 13,56%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 20,94%; sản xuất chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế); sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện giảm 5,66%.

Lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm cuối tháng 6 ước tính tăng 5,64% so với tháng trước và tăng 6,51% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tăng 6,51% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực FDI tăng 34,62%; khu vực Nhà nước tăng 1%; khu vực ngoài Nhà nước giảm 48,57%. Chia theo ngành kinh tế, trong 6 tháng qua, lao động đang làm việc trong ngành chế biến, chế tạo tăng 7,44% so với cùng kỳ năm 2021; ngành khai khoáng tăng 0,28%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt giảm 1,17%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,95%.

4. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Phát triển doanh nghiệp, 6 tháng đầu năm có 650 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với số vốn đăng ký là 8.340 tỷ đồng, tăng 5,9% về số doanh nghiệp bằng 65,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2021 và đạt 60% kế hoạch năm; có 190 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, có 260 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng, có 86 doanh nghiệp đăng ký giải thể, 15 hợp tác xã đăng ký thành lập mới, đạt 50% kế hoạch năm. Đây là dấu hiệu tích cực cho năm 2022, phản ánh kỳ vọng, niềm tin mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp vào tiến trình mở cửa, phục hồi kinh tế của tỉnh sau 2 năm chịu tác động của đại dịch bệnh Covid 19.

5. Hoạt động dịch vụ

Tình hình tổng mức hàng hóa và dịch vụ trên địa bàn tỉnh Bình Phước tháng 6/2022 tăng so với tháng 5/2022. Tỉnh đã triển khai nhiều hoạt động kích cầu nội địa, đẩy mạnh kết nối cung cầu, khuyến mại tập trung, xúc tiến thương mại, phát triển các điểm giới thiệu và bán sản phẩm OCOP gắn với du lịch làng nghề, du lịch nông thôn trên địa bàn tỉnh. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm tăng 6,02% so với cùng kỳ năm trước.

5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tháng 6/2022 tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước thực hiện 5.513,10 tỷ đồng, tăng 3,83% so với tháng trước, tăng 18,40% so với cùng kỳ. Xét theo ngành hoạt động: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 4.571,12 tỷ đồng, tăng 15,88% so với tháng trước, tăng 5,39% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống 550,26 tỷ đồng, tăng 3,09% so với tháng trước, tăng 22,09% so với cùng kỳ; doanh thu du lịch lữ hành 0,97 tỷ đồng, tăng 33,93% so với tháng trước, bằng so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ đạt 390,75 tỷ đồng, tăng 7,22% so với tháng trước, tăng 49,64% so với cùng kỳ.

Ước tính quý II/2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 15.932,69 tỷ đồng, tăng 13,73%% so với quý trước và tăng 112,56% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng 12,37% và tăng 10,42%; khách sạn, nhà hàng giảm 118,03% và tăng 18,81%; du lịch lữ hành tăng 3,55 lần và tăng 178,31%; dịch vụ khác tăng 24,45% và tăng 32,08%.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước thực hiện 29.800,72 tỷ đồng, tăng 6,02% so với cùng kỳ năm trước. Tăng chủ yếu nhờ sự phục hồi mạnh của hoạt động bán lẻ hàng hóa. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 24.890,78 tỷ đồng, tăng 5,39% so với cùng kỳ năm trước (doanh thu lương thực, thực phẩm tăng 19,61%; xăng dầu tăng 8,42%; Vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 6,98%; nhiên liệu khác tăng 0,97%); lưu trú, ăn uống 2.893,70 tỷ đồng tăng 7,24%; lữ hành đạt 2,63 tỷ đồng, tăng 70,24%; dịch vụ đạt 2.013,61 tỷ đồng, tăng 12,42%. 
tong muc

5.2. Giao thông vận tải
 

Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải trong tháng 6/2022 ước đạt 191.834,74 triệu đồng, tăng 1,90% so với tháng trước, tăng 94,96% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: vận tải hành khách đạt 114.698,84 triệu đồng, tăng 2,39% so với tháng trước, tăng 3,63 lần so với cùng kỳ; vận tải hàng hóa đạt 74.595,90 triệu đồng, tăng 1,14%, tăng 13,63%; dịch vụ hỗ trợ vận tải 2.540 triệu đồng, tăng 1,92% và 116,43%. Lũy kế 6 tháng, doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 899.817,85 triệu đồng, giảm 7,75% so với cùng kỳ, trong đó: vận tải hành khách đạt 453.751,65 triệu đồng, giảm 19,94%; vận tải hàng hóa đạt 131.408,60 tỷ đồng, tăng 9,04%; dịch vụ hỗ trợ vận tải 14.657,60 triệu đồng, tăng 12,71%.

Vận tải hành khách tháng 6/2022 ước đạt 1.231,16 ngàn HK và 154.659,22 nghìn HK.km, so với tháng trước tăng 1,15% về vận chuyển, tăng 1,09% về luân chuyển, so với cùng kỳ năm trước tăng 3,59 lần% về vận chuyển, tăng 3,59 lần về luân chuyển. Lũy kế 6 tháng, vận tải hành khách ước đạt 4.911,58 ngàn HK và 616.801,90 nghìn HK.km, so với cùng kỳ giảm 22,82% về vận chuyển, giảm 21,43% về luân chuyển.

Ước tính quý II/2022, số lượt hành khách vận chuyển đạt 3.557,70 ngàn lượt hành khách, giảm 62,38% so với quý trước và tăng 28,66% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 447.240,85 ngàn lượt hành khách.km, giảm 61,40% và tăng 29,35%. 

Vận tải hàng hoá tháng 6/2022 ước đạt 319 ngàn tấn và 21.792,40 nghìn T.km, so với tháng trước tăng 0,35% về vận chuyển, tăng 0,36% về luân chuyển, so với cùng kỳ năm trước tăng 9,03% về vận chuyển, tăng 9,36% về luân chuyển. Lũy kế 6 tháng, vận tải hàng hóa ước đạt 1.880,60 ngàn tấn và 127.415,60 ngàn T.km, so với cùng kỳ tăng 7,77% về vận chuyển, tăng 6,37% về luân chuyển.

Ước tính quý II/2022, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 953,70 ngàn tấn, tăng 6,06% so với quý trước và tăng 9,48% so với cùng kỳ năm 2021; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 65.159,33 nghìn tấn.km, tăng 2,98% và tăng 9,82%.
doanh thu van tai

II. ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
1. Hoạt động ngân hàng

Tình hình thực hiện lãi suất: Hiện nay lãi suất cho vay bình quân đối với các khoản cho vay mới và cũ còn dư nợ ở mức 7,6-9,5%/năm; lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức 4,5%/năm; của quỹ tín dụng nhân dân 5,5%/năm.    

Huy động vốn: Tổng nguồn vốn huy động tại chỗ đến 30/6/2022 ước đạt 58.970 tỷ đồng, tăng 13,02% so với cuối năm 2021. Dư nợ tín dụng đến 30/6/2022 ước đạt 108.250 tỷ đồng, tăng 19,48% so với cuối năm 2021. Nợ xấu đến nay chiếm khoảng 0,74%/tổng dư nợ tín dụng toàn địa bàn. 

Hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19: Từ 23/01/2020-31/5/2022 các chi nhánh NHTM, QTDND trên địa bàn đã cơ cấu lại thời hạn nợ và giữ nguyên nhóm nợ cho 374 khách hàng với tổng dư nợ 1.128,79 tỷ đồng (nợ gốc 1.052,1 tỷ đồng, nợ lãi 76,69 tỷ đồng).

Hỗ trợ các hộ dân vay vốn trồng cây hồ tiêu bị chết: đến 31/5/2022 các hộ dân nhánh ngân hàng trên địa bàn đã cơ cấu thời hạn nộ gốc và lãi cho 829 khách hàng với dự nợ 388,570 tỷ đồng, giảm lãi cho 5.253 khách hàng với dư nợ được giảm là 1.129,19 tỷ đồng, số tiền lãi được giảm là 10,41 tỷ đồng, cho vay mới 4.923 khách hàng với dư nợ cho vay 919,37 tỷ đồng.

2. Đầu tư và xây dựng

Trong 6 tháng đầu năm, tỉnh Bình Phước có nhiều giải pháp đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công và thu hút các nguồn vốn ngoài Nhà nước cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, tốc độ giải ngân và thực hiện vốn đầu tư công còn chậm so với kế hoạch.

Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý II/2022 theo giá hiện hành ước tính đạt 5.848,64 tỷ đồng, tăng 10,26% so với cùng kỳ năm trước; Lũy kế 6 tháng đầu năm 2022 tăng 8,04% so với cùng kỳ. Trong đó, khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn đầu tư tăng 7,17%, tuy nhiên vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước đạt tốc độ tăng cao nhất tăng 32%, đây là kết quả của những chính sách ưu đãi, hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh.

Vốn đầu tư thực hiện từ ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tháng 6 ước tính ước đạt 467.744 triệu đồng, tăng 2,64% so với tháng trước và tăng 7,64% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh thực hiện 369.009 triệu đồng, tăng 2,94% và tăng 4,22%; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện thực hiện 98.735 triệu đồng, tăng 1,53% và tăng 22,65%. 

Lũy kế 6 tháng đầu năm ước 1.954.078 triệu đồng, tăng 25,35%, trong đó vốn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh thực hiện 1.513.784 triệu đồng, tăng 25,18; vốn ngân sách Nhà nước cấp huyện thực hiện 440.294 triệu đồng, tăng 25,91%. Trong tháng tiếp tục thi công các công trình trọng điểm như: Đường phía Tây QL 13 đoạn Chơn Thành - Hoa Lư tỉnh Bình Phước; Đường giao thông kết hợp du lịch hồ thủy lợi Phước Hòa; Xây dựng tuyến kết nối ĐT.753B với đường Đồng Phú - Bình Dương (đoạn Lam Sơn - Tân Phước); Hạ tầng kỹ thuật tuyến đường Minh Hưng - Đồng Nơ (3 hạng mục phát sinh, gồm: điện chiếu sáng công cộng, đường dây 22KVA và trạm biến áp, trồng cây sao đen hai bên đường); Xây dựng mương thoát nước và đường giao thông ngoài Khu công nghiệp và khu dân cư Becamex Bình Phước (giai đoạn II); Xây dựng khối phòng học, thư viện trung tâm nghiên cứu khoa học Trường THPT Đồng Xoài; Xây dựng Trường THPT Phú Riềng; Xây dựng Nhà thi đấu đa năng tỉnh Bình Phước; Trường phổ thông Dân tộc nội trú THCS huyện Bù Đốp; Xây dựng đường giao thông và công viên khu di tích lịch sử căn cứ Bộ chỉ huy Miền Tà Thiết; Xây dựng đường Lý Thường Kiệt nối dài (đoạn từ đường Phú Riềng Đỏ đến đường Nguyễn Huệ, phường Tân Đồng); Xây dựng đường và cải tạo lòng hồ Long Thủy, thị xã Phước Long; Trường cấp 2,3 Minh Hưng, huyện Chơn Thành; Nâng cấp đường từ Ngã 3 Xa Cát vào Khu công nghiệp Việt Kiều, huyện Hớn Quản; Xây dựng đường từ TTHC huyện Đồng Phú đến khu quy hoạch công nghiệp - thương mại - dịch vụ Becamex Bình Phước. . .
von dau tu

Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Thu hút đầu tư trong nước 6 tháng đầu năm ước thực hiện 5.471 tỷ đồng, tăng 2,8 % về số vốn so với cùng kỳ năm 2021 và đạt 54,7% kế hoạch năm. Thu hút đầu tư vốn nước ngoài (FDI) ước thực hiện 15 dự án với số vốn đăng ký 50,97 triệu USD bằng 16,8% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2021, đạt 12,3% kế hoạch năm.

Giải ngân vốn đầu tư công: Về giải ngân vốn đầu tư công năm 2022, tổng kế hoạch vốn đầu tư công đã giao năm 2022 là 7.305,136 tỷ đồng, thực hiện giải ngân 5 tháng là 1.411 tỷ 454 triệu đồng, đạt 19,8% so với chỉ tiêu Chính phủ giao và đạt 19,3% so với kế hoạch tỉnh giao. Ước giải ngân 6 tháng đầu năm 2022 là 2.190 tỷ đồng, đạt 30,7% so với chỉ tiêu Chính phủ giao và đạt 30% so với kế hoạch tỉnh giao, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2021 là 13,1%. 

3. Thu, chi ngân sách

Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước 6 tháng đầu năm 2022 là 7.250.000 triệu đồng, đạt 55,13% so với dự toán HĐND tỉnh giao đầu năm, tăng 7,02% so với cùng kỳ, trong đó: Thu từ sản xuất kinh doanh trong nước ước 6.275.000 triệu đồng, đạt 56,04% so kế hoạch HĐND giao, tăng 10,86% so với cùng kỳ. Trong đó thu từ sản xuất kinh doanh trong nước: thu từ doanh nghiệp nhà nước ước 600.000 triệu đồng, đạt 65,22% so kế hoạch, tăng 19,23% so với cùng kỳ; thu từ kinh tế ngoài quốc doanh ước 910.000 triệu đồng, đạt 57,59% so kế hoạch, tăng 2,17% so với cùng kỳ; thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ước 420.000 triệu đồng, đạt 54,55% so kế hoạch, giảm 29,06% so với cùng kỳ; thu xổ số kiến thiết ước 480.000 triệu đồng, đạt 58,54% so kế hoạch, giảm 21,03%; khoản thu tiền sử dụng đất ước 1.943.000 triệu đồng, đạt 36,66% so kế hoạch, tăng 196,85% so cùng kỳ.

Thu từ Hải quan ước 520.000 triệu đồng, đạt 45,22% so kế hoạch HĐND tỉnh giao, giảm 27,29% so với cùng kỳ.

Tổng chi ngân sách nhà nước địa phương 6 tháng đầu năm 2022 ước thực hiện 8.179.000 triệu đồng, đạt 52,25% so với dự toán năm, tăng 14,28% so với cùng kỳ. Trong đó, chi đầu tư phát triển: 4.170.000 triệu đồng, đạt 57,18% dự toán, tăng 11,13% so với cùng kỳ; chi thường xuyên: 3.914.000 triệu đồng, đạt 49,65% dự toán, tăng 32,65% so với cùng kỳ, đã đáp ứng yêu cầu chi tiền lương, các khoản phụ cấp cho cán bộ, công chức, viên chức, các khoản an sinh xã hội, phòng ngừa dịch bệnh...

4. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ 

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 tăng 0,58% so với tháng trước, tăng 4,15% so với tháng 12/2021 và tăng 2,97% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2022 tăng 1,71% so với bình quân cùng kỳ năm 2021.

Trong tháng Sáu, có 7/11 nhóm hàng có chỉ số giá tăng so với tháng trước, trong đó: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,36% (trong đó: Lương thực tăng 0,03% so với tháng trước, nhóm thực phẩm tăng 0,59% so với tháng trước, ăn uống ngoài gia đình ổn định); Nhóm giao thông tăng 3,91% (do đợt điều chỉnh giá xăng dầu vào ngày vào ngày 01/6/2022, 13/6/2022 và ngày 21/6/2022 làm cho giá xăng tăng 8,18%; giá dầu diezen tăng 8,49%); Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,48%; Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,38% (do giá nguyên phụ liệu sản xuất tăng vì ảnh hưởng của chiến tranh Nga - Ucraina và chiến lược zero Covid từ Trung Quốc); Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,10%; Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,01%. Có 2/11 nhóm hàng giảm xuống so với tháng trước: Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,02%; Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,01%. Có 2/11 nhóm hàng ổn định so với tháng trước là: Nhóm thuốc và dịch vụ y tế; Nhóm giáo dục.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 6 tháng đầu năm 2021 tăng 1,71% so với bình quân cùng kỳ năm trước. Nhóm hàng tăng cao hơn so với mức tăng chung như: Giao thông tăng 20,55%; Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,91% (trong đó: Lương thực tăng 5,18%; ăn uống ngoài gia đình tăng 3,86%); Đồ uống và thuốc lá tăng 4,10%; May mặc, mũ nón và giày dép tăng 2,01%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 1,84%; Thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,08%; Giáo dục tăng 0,09%; Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,81%. Các hàng hóa, dịch vụ giảm: Bưu chính viễn thông giảm 1,11%; Văn hoá, giải trí và du lịch giảm 0,08%.

Chỉ số giá vàng tháng Sáu giảm so với tháng trước. Chỉ số tháng 6/2022 là 98,75% giảm 1,25% so với tháng trước, tăng 3,70% so với tháng 12 năm trước, tăng 2,02% so với cùng kỳ. Giá vàng trong nước giảm mạnh do chịu áp lực của lợi suất trái phiếu tăng mạnh.

Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Sáu tăng so với tháng trước, chỉ số tháng này là 100,67% tăng 0,67% so với tháng trước và tăng 1,02% so với cùng kỳ, tăng 1,80% so với tháng 12 năm trước. Đồng USD tăng khi “khẩu vị” của các nhà đầu tư đối với các tài sản rủi ro giảm xuống, trong bối cảnh chứng khoán Mỹ giảm, góp phần tăng sức hấp dẫn của những tài sản trú ẩn an toàn.
chi so gia

III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
1. Lao động, việc làm và đời sống dân cư

- Công tác lao động - việc làm 
Ước 6 tháng đầu năm 2022, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho 24.972/39.000 lao động, đạt 64,03% kế hoạch năm, giảm 4,12% so với cùng kỳ; Tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 62,2/64%, tăng 3,15% so với cùng kỳ. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm xã hội đạt: 23,38/35%, đạt 66,8% so với cùng kỳ.
Tổ chức tư vấn nghề, giới thiệu việc làm cho 10.161 lao động; tổ chức 5 phiên giao dịch việc làm thu hút 21 doanh nghiệp và 1.020 lao động tham gia. giải quyết hưởng bảo hiểm thất nghiệp cho 6.200 lao động (tăng 6,9% so với cùng kỳ); hỗ trợ học nghề cho 39 lao động. 

- Đời sống dân cư
Nhìn chung đời sống dân cư 6 tháng đầu năm 2022 có nhiều cải thiện về mặt tinh thần cũng như về vật chất, văn hoá, giáo dục phát triển toàn diện, các chính sách xã hội được chú trọng, tình hình an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội đảm bảo. Đặc biệt là trong dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022 người dân tỉnh nhà mua sắm sôi động, nhộn nhịp, các đối tượng chính sách, đồng bào nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người già tàn tật, cô đơn… được hưởng một mùa xuân trọn vẹn, vui tươi và đầm ấm nhờ sự quan tâm của Tỉnh ủy, HĐND, UBND, sự ủng hộ của các ban ngành đoàn thể, các tổ chức hảo tâm, từ thiện, các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh hỗ trợ, động viên.

Tình hình tiền lương, chính sách đối với đời sống công chức, viên chức, người lao động trên địa bàn tỉnh vẫn được đảm bảo, chế độ nâng lương định kỳ, bảo hiểm xã hội… góp phần ổn định hơn về đời sống vật chất, tinh thần, yên tâm công tác. 

Các doanh nghiệp trả lương cho công nhân đều cao hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định, việc nâng bậc lương hàng năm cho người lao động được thực hiện theo Quy chế nâng bậc lương, hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã được ký kết của từng doanh nghiệp. Việc đảm bảo mức sống cơ bản cho người lao động là động lực để cho công nhân yên tâm làm việc ổn định tại doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thực hiện tốt các chính sách, phúc lợi cho người lao động nên phần lớn người lao động đã quay trở lại làm việc sau kỳ nghỉ Tết theo đúng thời gian quy định Số còn lại do nhà ở xa chưa vào kịp hoặc xin nghỉ phép, nghỉ thai sản, nghỉ việc riêng nên chưa quay trở lại làm việc.

- Tình hình thiếu đói
Trong 6 tháng đầu năm 2021, trên địa bàn tỉnh Bình Phước không phát sinh tình hình thiếu đói.

2. Công tác an sinh xã hội

- Việc chăm lo Tết cho các đối tượng chính sách, người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội
Về tình hình hỗ trợ đối tượng là hộ nghèo, cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội và đối tượng khác: Toàn tỉnh đã vận động từ các tổ chức, cá nhân, các  từ thiện, các nhà hảo tâm trong và ngoài tỉnh, các nhà tài trợ tổng số là 38.916 phần quà trị giá 19.405.300 ngàn đồng (trong đó: Hộ nghèo 5.971 phần; Hộ cận nghèo 4.068 phần; Đối tượng bảo trợ xã hội 21.574 phần; Đối tượng là người Việt Nam di cư từ Campuchia về nước gặp khó khăn mà chưa nhập quốc tịch, chưa đăng ký hộ khẩu 496 phần và hỗ trợ cho các đối tượng khác 6.807 phần quà).

- Công tác bảo trợ xã hội
Công tác nuôi dưỡng đối tượng bảo trợ xã hội (viết tắt là BTXH): Toàn tỉnh có Toàn tỉnh có 213 đối tượng đang được nuôi dưỡng tại các cơ sở bảo trợ xã hội, trong đó nuôi dưỡng tập trung tại Trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh 60 đối tượng và các cơ sở BTXH tư nhân 184 đối tượng.

Cơ sở Cai nghiện ma túy đã tiếp nhận, quản lý, cai nghiện cho 566 học viên (bắt buộc 534 học viên, tự nguyện 32 học viên); đưa về tái hòa nhập cộng đồng 139 học viên (bắt buộc 126 học viên, tự nguyện 13 học viên). Cơ sở đã tổ chức các buổi tuyên truyền tập thể định kỳ về giáo dục pháp luật với tổng cộng 4.007 lượt học viên tham gia.

 Nhìn chung, cùng với chính sách hỗ trợ của Nhà nước, sự nỗ lực của các ngành, các cấp và sự chung tay chia sẻ của toàn xã hội đã tạo điều kiện cho các đối tượng đón Tết được chu đáo, đầy đủ, đảm bảo 100% đối tượng chính sách, người có công, đối tượng bảo trợ xã hội, người nghèo và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn đều có quà đón Tết, vui xuân góp phần thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh. 

- Công tác thực hiện chính sách ưu đãi người có công 
Các chế độ chính sách cho người có công được đảm bảo đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng. Ước 6 tháng đầu năm tiếp nhận xử lý giải quyết 1.482 hồ sơ đối tượng chính sách người có công với cách mạng. Trong đó có 501 hồ sơ tiếp nhận tại Trung tâm phục vụ hành chính công của tỉnh và 981 hồ sơ tiếp nhận tại sở. Giải quyết điều dưỡng tại nhà cho 328 đối tượng người có công. Ước 6 tháng đầu năm phòng người có công tiếp nhận và giải quyết 1.550 hồ sơ người có công các loại.

3. Giáo dục, đào tạo

Trong tháng 6 năm 2022, ngành Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo, thực hiện công tác đánh giá tổng kết học kỳ II năm học 2021-2022 của các đơn vị. Hướng dẫn xét công nhận tốt nghiệp THCS năm học 2021-2022. Tổ chức thi tốt nghiệp và tuyển sinh vào lớp 10. Tổ chức thi nghề phổ thông đợt 2 năm học 2021-2022 và thi thử tốt nghiệp THPT năm 2022 lần 2. 

Triển khai các bước thực hiện biên soạn tài liệu giáo dục địa phương tỉnh Bình Phước lớp 7 và lớp 10; bồi dưỡng sử dụng SGK lớp 7, lớp 10 cho CBQL, GV cấp THCS, THPT.

Kết quả thực hiện Chương trình “Sóng và Máy tính cho em”: Ban Vận động đã vận động các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh đóng góp được 02 laptop; 09 máy tính bàn; 219 điện thoại thông minh; 142 sim điện thoại 4G và 3.017 gói cước và 10 thiết bị chuyển đổi ti vi thường thành ti vi thông minh hỗ trợ học trực tuyến; Về tiền mặt đã vận động được là: 27.646.625.300 đồng.

Chương trình “Sóng và Máy tính cho em” được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và các cấp ủy đảng, lãnh đạo chính quyền sở, ban, ngành, lực lượng vũ trang, tổ chức, đoàn thể tỉnh và các địa phương. Cùng với các tỉnh khác, Bình Phước là một trong 8 tỉnh thành đã thực hiện Chương trình “Sóng và Máy tính cho em” sớm nhất cả nước và đạt được kết quả đáng khích lệ. Công tác phối hợp tổ chức triển khai Chương trình được thực hiện tốt, có hiệu quả. Việc tuyên truyền, vận động được triển khai sâu rộng, có sức lan tỏa và thu hút được sự quan tâm, ủng hộ của toàn xã hội thể hiện tinh thần nhân ái và giá trị nhân văn cao cả. 

4. Chăm sóc sức khỏe cộng đồng

Công tác mạng lưới y tế, biên chế, đào tạo cán bộ, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị tiếp tục thực hiện theo quy định. Các cơ sở khám chữa bệnh đảm bảo tốt việc trực và điều trị bệnh; triển khai các biện pháp phòng chống dịch bệnh, giám sát dịch bệnh. Ngành Y tế tỉnh đã và đang triển khai quyết liệt các giải pháp phòng, chống dịch bệnh.
 
Các loại dịch bệnh khác được kiểm soát tốt, tổng số ca mắc sốt rét là 10 ca, giảm 60% so với cùng kỳ, không có tử vong, không có dịch sốt rét xảy ra; sốt xuất huyết 1.021 ca, tăng 6%. Tử vong 01 ca (tương đương cùng kỳ). Phát hiện 133 ổ dịch, hiện đang thực hiện các biện pháp xử lý. Dịch bệnh sốt xuất huyết đang có xu hướng gia tăng kể từ tháng 5/2022; bệnh chân tay miệng 189 ca, giảm 19% so với cùng kỳ. Về phòng chống HIV/AIDS: Số mẫu giám sát phát hiện 7.908/12.000 mẫu (trong đó 39 mẫu dương tính) đạt 65,9%, tăng 62,6% so với cùng kỳ (4.864 mẫu, trong đó dương tính 71 ca); Phát hiện HIV mới: 37 ca (tích lũy 3.877). Phát hiện AIDS mới: 34 ca bệnh (tích lũy 1.877). Tử vong: 07 ca, tích lũy tử vong: 337 ca. Bệnh nhân quản lý điều trị Methadone: 76 ca.

5. Hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch

Công tác tuyên truyền: Tổ chức và thực hiện tốt công tác tuyên truyền cổ động trực quan, tuyên truyền các hoạt động phòng, chống dịch Covid-19. Kết quả, thực hiện in ấn và thi công trang trí được: 1.150m băng rôn, 7.250m2 pano, 6.150m2 banner; 3.250 lượt cờ các loại; 850 giờ xe tuyên truyền với nhiều nội dung khác nhau; viết tin bài đăng trên trang web, tạp chí của ngành và của các đơn vị.

Nghệ thuật biểu diễn và hoạt động quần chúng: Trong tháng 6 Trung tâm Văn hóa tỉnh đã phối hợp tổ chức chiếu phim phục vụ nhân dân trên màng hình Led nhằm tuyên truyền thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và công tác phòng, chống dịch Covid-19 được 93 buổi; chiếu phim phục vụ tại cơ sở được 27 buổi, thu hút 1.890 lượt người xem.

Hoạt động thư viện: Trong 6 tháng đầu năm, Thư viện cấp 25 thẻ thư viện (cấp mới 14 thẻ và 11 thẻ gia hạn); phục vụ được 251.019 lượt bạn đọc (trong đó bạn đọc tại phòng đọc Thư viện: 250 lượt, ngoài thư viện 1.346 lượt; bạn đọc truy cập website: 249.143 lượt, Ebook: 10 lượt); tổng số tài liệu lưu hành là 8.492 lượt (tại Thư viện 5.200; ngoài Thư viện 3.292).

Thể dục thể thao: Trong 6 tháng đầu năm, Tổ chức Giải Quần vợt Đại hội Thể dục thể thao tỉnh Bình Phước lần thứ VI; phối hợp tổ chức Hội thi Văn hóa - Thể thao Người khuyết tật; thành lập Đoàn tham dự lễ khai mạc và dự khán các cuộc thi đấu tại Seagames 31; ban hành kế hoạch tổ chức các giải thể thao thuộc hệ thống các giải Đại hội Thể dục thể thao cấp tỉnh như Quần vợt, Thể dục dưỡng sinh; kế hoạch tổ chức Giải Bóng đá Thiếu niên và Nhi đồng; kế hoạch phối hợp tổ chức Hội thi văn nghệ, thể thao người khuyết tật.

Hoạt động du lịch: Trong 6 tháng đầu năm, hoạt động du lịch với lượt khách tham quan đạt 86.320 lượt khách, tăng 6,32% so với cùng kỳ 2021; trong đó khách nội địa 86.650 lượt khách; khách quốc tế: 650 lượt khách. Tổng doanh thu đạt 45,14 tỷ đồng, tăng 8,18% so với cùng kỳ năm trước.

6. Tai nạn giao thông

Trong tháng trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 15 vụ tai nạn giao thông từ ít nghiêm trọng trở lên, có 13 người chết và 6 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông trong tháng tăng 25%; số người chết tăng 30%; số người bị thương giảm 12,29%. Tính chung 6 tháng năm 2022, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 78 vụ tai nạn giao thông, làm 63 người chết, 58 người bị thương. So với cùng kỳ năm trước, số vụ tai nạn giao thông giảm 6,02%; số người chết giảm 1,56%; số người bị thương tăng 3,57%.

Trong tháng, lực lượng cảnh sát giao thông đã phát hiện 3.327 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông, tạm giữ 923 phương tiện, tước 662 giấy phép lái xe, cảnh cáo 61 trường hợp, xử lý hành chính 3.111 trường hợp. Số tiền nộp kho bạc nhà nước 6.698 triệu đồng. Nguyên nhân chủ yếu là chạy quá tốc độ (87 trường hợp), không có giấy phép lái xe (627 trường hợp), không đội mũ bảo hiểm (604 trường hợp) và không đi đúng làn đường quy định (270 trường hợp).

Tính chung 6 tháng đầu năm, lực lượng cảnh sát giao thông đã phát hiện 21.532 trường hợp vi phạm trật tự an toàn giao thông, tạm giữ 5.075 phương tiện, tước 2.877 giấy phép lái xe, cảnh cáo 430 trường hợp, xử lý hành chính 16.897 trường hợp. Số tiền nộp kho bạc nhà nước 30.032 triệu đồng. Nguyên nhân chủ yếu là chạy quá tốc độ (733 trường hợp), không có giấy phép lái xe (3.275 trường hợp), không đội mũ bảo hiểm (3.035 trường hợp) và không đi đúng làn đường quy định (1.144 trường hợp).
an toan xa hoi

7. Thiệt hại thiên tai 

Trong tháng 6 năm 2022 trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ thiên tai. Do ảnh hưởng của thời tiết đã có mưa kèm gió lốc làm ngã đỗ mốt số cây xanh làm cản trở giao thông trên các tuyến đường tại Thành phố Đồng Xoài. Ước tính giá trị thiệt hại do mưa, gió lốc gây ra khoảng 105 triệu đồng.

8. Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường

Trong tháng trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ cháy, nổ. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2022 là 4 vụ cháy, nổ, giảm 20% so với cùng kỳ năm trước, thiệt hại khoảng 2.670 triệu đồng và 02 người bị thương.

Trong tháng, cơ quan chức năng đã phát hiện 50 vụ vi phạm môi trường, nhiều hơn 34 vụ so với tháng trước (50/16). Các vụ vi phạm môi trường cụ thể là: Vi phạm về khoáng; vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường; vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm; vi phạm về bảo vệ, vận chuyển lâm sản. Đã xử phạt vi phạm hành chính 26 vụ. Số tiền xử phạt 250 triệu đồng. Các vụ còn lại đang củng cố hồ sơ, xử lý. Lũy kế đến hết tháng 6 năm 2022 số vụ vi phạm môi trường đã phát hiện là 176 vụ, đã xử lý 78 vụ; Số tiền xử phạt 564,50 triệu đồng.

Khái quát lại, tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2022 đạt được các kết quả trên là rất quan trọng, thể hiện tính kịp thời, hiệu quả các giải pháp của tỉnh trong phòng, chống dịch và phục hồi phát triển kinh tế, có nhiều điểm sáng: Kinh tế tăng trưởng khá 6,91%; thu hút đầu tư, phát triển doanh nghiệp và phát triển hợp tác xã đạt kết quả rất khả quan, tăng cao so với cùng kỳ; sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại, dịch vụ vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao; Giao thông vận tải đảm bảo nhu cầu vận chuyển hàng hoá và nhu cầu đi lại của nhân dân; sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định, chăn nuôi với quy mô tập trung và theo chuỗi giá trị tiếp tục phát triển mạnh gắn với xây dựng vùng an toàn dịch bệnh. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội, môi trường tiếp tục được quan tâm, an sinh xã hội được đảm bảo; Công tác khám chữa bệnh vẫn được duy trì tốt; quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. 

Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, vẫn còn một số khó khăn, hạn chế như: Giá xăng dầu tăng cao; thời tiết bất thường, mưa trái mùa đã ảnh hưởng đến sản lượng điều; giá thức ăn chăn nuôi tăng cao; công tác giải ngân vốn đầu tư công đạt thấp.

Trên đây là một số tình hình cơ bản về kinh tế - xã hội tỉnh Bình Phước tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2022./.

 

Tác giả: Cục Thống kê tỉnh Bình Phước

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Việc làm Bình Phước
Công báo Chính phủ
DVC Quốc gia
Ecom Binh Phuoc
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập2,413
  • Hôm nay619,391
  • Tháng hiện tại10,443,653
  • Tổng lượt truy cập455,838,775
ỨNG DỤNG
1 bp today
3 dhtn
2 ioffice
4 congbao
Portal_Ispeed
Tổng cục Thống kê
Phân mềm giao việc_Taskgov
Điều tra thu thập thông tin lập bảng cân đối liên ngành
Chiến lược phát triển TKVN
Tuyển dụng năm 2022
sổ tay đảng viên
Tạp chi
KQ TTHC
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây