Đồng chí Võ Nguyên Giáp viết “Nói đến đấu tranh vũ trang, đến xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng thì không thể không nói đến vấn đề căn cứ địa cách mạng, vấn đề hậu phương của chiến tranh cách mạng”. Vì vậy, chúng ta có thể thấy trong suốt quá trình lãnh đạo chiến tranh cách mạng, Đảng ta luôn đặt vấn đề hậu phương và căn cứ địa lên vị trí hàng đầu và là một trong những vấn đề cơ bản quyết định sự thành bại sống còn. Căn cứ Bộ Chỉ quân giải phóng miền Nam Việt Nam hay còn gọi là “Rừng Chính phủ” (căn cứ Tà Thiết) là minh chứng cho điều đó. Căn cứ Tà Thiết không chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ và phát triển các hoạt động của Bộ Chỉ huy Miền, một căn cứ dự trữ hậu cần chiến lược, mà còn là căn cứ cơ bản của Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi vẻ vang của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Tiền thân nơi đây là sở Chỉ huy tiền phương của chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972. Ngày 7/4/1972, Lộc Ninh là huyện đầu tiên của miền Nam được giải phóng, Trung ương Cục và Bộ Tư lệnh Miền quyết định dời căn cứ Quân ủy Miền từ Sóc Con Trăng (Tây Ninh) về đóng tại Tà Thiết. Lý do là: so với vùng Bắc Tây Ninh, khí hậu ở đây ít khắc nghiệt hơn, có rừng giải phóng rộng lớn; đặc biệt, Lộc Ninh là điểm cuối cùng của đường mòn Hồ Chí Minh nên có điều kiện để nắm bắt nhanh mọi diễn biến về chính trị, quân sự và rất thuận lợi cho sự chỉ đạo, lãnh đạo và tiếp nhận vũ khí, lương thực, thực phẩm phục vụ cho chiến trường miền Nam. Việc chọn Tà Thiết cũng gây bất ngờ đối với địch, vì lâu nay, các căn cứ của Bộ Chỉ huy Miền thường đóng ở rừng sâu, nay chuyển dịch ra ở một khu vực có dân, có rẫy (tuy không nhiều). Việc chọn Tà Thiết làm căn cứ của Bộ Chỉ huy Miền, có những lý do vừa giống vừa khác các thời kỳ trước. Giống, vì Tà Thiết vẫn thuộc khu B, có những lợi thế của khu B. Khác vì nó tiến sát đoạn cuối đường Hồ Chí Minh hơn, thuận lợi cho việc tiếp nhận những tiếp tế hậu cần chiến lược và liên lạc ra Bắc.
Cuối tháng 1/1973, các đơn vị công binh của Miền bắt đầu mở các con đường mới cho 3 cục tham mưu, chính trị, hậu cần (Bộ chỉ huy Miền) di chuyển về căn cứ Tà Thiết. Ngày 8/2/1973, các con đường ở đây đã nhanh chóng được hoàn tất.
Đầu tháng 3/1973, căn cứ Tà Thiết bắt đầu được xây dựng và được xác định đây là căn cứ cuối cùng của cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Du khách nghe thuyết minh về lịch sử khu căn cứ
Cuối quý 1 năm 1973, tất cả các cơ quan trong Bộ Chỉ huy Miền và các đơn vị trực thuộc đã ổn định xong nơi ăn, ở. Tại đây, dưới những tán cây lớn, xung quanh là những rừng le đan chằng chịt là những công trình nhà làm việc của các đồng chí chỉ huy cao cấp trong Bộ Tư lệnh Miền: Tư lệnh Trần Văn Trà, phó Tư lệnh Nguyễn Thị Định, Chính ủy Phạm Hùng, phó Tư lệnh kiêm tham mưu trưởng Lê Đức Anh…riêng nhà ở và làm việc của thượng Tướng Trần Văn Trà lại được dựng ngoài một trảng trống theo kiến trúc nhà sàn của đồng bào dân tộc Khơmer. Cùng với nhà ở và làm việc là hệ thống các công trình phục vụ khác như bếp Hoàng Cầm, hầm giao ban, hội trường... tất cả đều được xây dựng theo lối nhà bán âm (nửa chìm nửa nổi) để về đêm hạn chế ánh sáng đèn phát ra ngoài; bên trên được lợp bằng lá trung quân để tránh bị máy bay địch phát hiện, bốn xung quanh mỗi công trình đều có hệ thống giao thông hào để thoát hiểm. Các hầm trú ẩn thường được làm kế cận nhà, chìm vào lòng đất, trên đặt mái bằng. Những hầm đặc biệt như hầm chỉ huy, hầm thông tin, hầm quân y… thường được làm khá rộng để tiện hoạt động, phòng khi trên mặt đất không an toàn.. Giao thông hào chỉ dành cho một số hầm đặc biệt nói trên, không phổ biến toàn căn cứ. Các hạng mục cách nhau từ 50 đến 200 mét.
Ngày 20/7/1974, tại Hội nghị quân chính Miền ở căn cứ Tà Thiết, đồng chí Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục miền Nam thay mặt Trung ương Đảng tuyên bố Quyết định thành lập quân đoàn 4, gồm 2 sư đoàn bộ binh 7 và 9, các trung đoàn 24 pháo binh, 71 phòng không, 429 đặc công và 3 tiểu đoàn thông tin. Đồng chí Hoàng Cầm được bổ nhiệm Tư lệnh quân đoàn 4. Đây là sự kiện quan trọng làm nức lòng cán bộ, chiến sĩ vì nó đánh dấu bước trưởng thành mới của chủ lực Miền.
Căn cứ Tà Thiết sau đó còn mang những sự kiện lịch sử đặc biệt hơn. Thứ nhất, đây là nơi từng diễn ra các cuộc hội họp và tiếp các phái đoàn cao cấp của Bộ Chính trị, Bộ trưởng tham mưu - Trung ương Cục miền Nam. Thứ hai, đặc biệt hơn, cũng tại hội trường này, ngày 8/4/1975, đồng chí Lê Đức Thọ thay mặt Bộ Chính trị phổ biến Nghị quyết 7 của Trung ương Đảng về việc thành lập Bộ chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Thứ ba, để có một tên gọi xứng tầm với một chiến dịch lớn nhất và có ý nghĩa nhất kết thúc cuộc chiến tranh trường kỳ 21 năm chống Mỹ, Bộ Chỉ huy chiến dịch đề nghị Trung ương đặt tên cho chiến dịch giải phóng Sài Gòn. Đáp ứng nguyện vọng đó, Bộ Chính trị đồng ý đổi tên chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định thành chiến dịch mang tên Bác - chiến dịch Hồ Chí Minh, bằng bức điện 37 TK do Tổng Bí thư Lê Duẩn ký. Bức điện lịch sử đó đã được phổ biến cũng tại Hội trường này.
Như vậy, Căn cứ Tà Thiết đã làm tròn nhiệm vụ lịch sử là căn cứ cuối cùng của Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền; không chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ và phát triển các hoạt động của Bộ Chỉ huy Miền, một căn cứ dự trữ hậu cần chiến lược, mà còn là căn cứ cơ bản của Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng Sài Gòn, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi vẻ vang của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ quá trình hình thành và phát triển các căn cứ của Bộ Chỉ huy Miền trong cuộc chiến tranh chống Mỹ là một đóng góp thiết thực vào kho tàng tri thức quân sự của ông cha ta và của quân đội ta trong quá trình giữ nước.
Khu di tích lịch sử này có địa bàn rộng, bằng phẳng, không gian yên tĩnh, không khí trong lành. Đến đây, chúng ta được tận mắt chứng kiến những hình ảnh, hiện vật, tư liệu sinh động của một thời không thể nào quên.
Với ý nghĩa lịch sử to lớn, ngày 16/11/1988 Bộ Văn hóa công nhận xếp hạng Căn cứ Bộ chỉ huy quân giải phóng miền Nam Việt Nam (Căn cứ Tà Thiết) là di tích lịch sử quốc gia. Ngày nay, di tích là địa chỉ đỏ du lịch về nguồn đầy ý nghĩa của các đoàn khách tham quan trong và ngoài tỉnh.
Đến ngày 23/12/2015, Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Căn cứ Bộ Chỉ huy quân giải phóng miền Nam Việt Nam./.