Ngày 23/3/2022, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã nhất trí thông qua Nghị quyết 17/2022/UBTVQH15 quy định về số giờ làm thêm trong 01 năm, trong 01 tháng của người lao động trong bối cảnh phòng, chống dịch COVID-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội và có hiệu lực từ ngày 01/4/2022. Riêng quy định về số giờ làm thêm trong 1 năm có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022.
Theo đó, trường hợp người sử dụng lao động có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động (NLĐ) thì được sử dụng NLĐ làm thêm trên 200 giờ nhưng không quá 300 giờ trong 1 năm, trừ các trường hợp NLĐ: từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi; là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 hoặc từ tháng thứ 6 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Quy định về số giờ làm thêm trong 1 năm nêu trên không áp dụng đối với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 107 của Bộ luật Lao động.
Đối với số giờ làm thêm trong 1 tháng, trường hợp người sử dụng lao động được sử dụng NLĐ làm thêm tối đa 300 giờ trong 1 năm có nhu cầu và được sự đồng ý của NLĐ thì được sử dụng người lao động làm thêm trên 40 giờ nhưng không quá 60 giờ trong 1 tháng.
Việc thực hiện quy định về số giờ làm thêm tại Nghị quyết này phải tuân thủ đầy đủ các quy định khác có liên quan của Bộ luật Lao động.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nâng cao năng suất lao động và các biện pháp khác nhằm giảm thiểu việc làm thêm giờ; trong trường hợp phải làm thêm giờ, người sử dụng lao động thực hiện các chế độ phúc lợi bảo đảm cho người lao động có điều kiện thuận lợi hơn so với quy định của pháp luật về lao động.
Kèm theo Nghị quyết 17/2022/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Nguyễn Thị Kim Thanh