Trách nhiệm đối thoại tại nơi làm việc của chủ sử dụng lao động

Thứ năm - 05/12/2024 14:31
    Theo quy định tại Bộ luật Lao động 2019, chủ sử dụng lao động có trách nhiệm đối thoại tại nơi làm việc với người lao động hoặc hoặc tổ chức đại diện người lao động. Điều này thể hiện quan điểm tiến bộ trong quan hệ lao động, đảm bảo hài hòa, bền vững và giải quyết sớm những vấn đề có thể làm phát sinh mâu thuẫn giữa hai bên.
    Cụ thể, tại Điều 63 Bộ luật Lao động 2019, việc tổ chức đối thoại tại nơi làm việc quy định như sau:
    1. Đối thoại tại nơi làm việc là việc chia sẻ thông tin, tham khảo, thảo luận, trao đổi ý kiến giữa người sử dụng lao động với người lao động hoặc tổ chức đại diện người lao động về những vấn đề liên quan đến quyền, lợi ích và mối quan tâm của các bên tại nơi làm việc nhằm tăng cường sự hiểu biết, hợp tác, cùng nỗ lực hướng tới giải pháp các bên cùng có lợi.
    2. Người sử dụng lao động phải tổ chức đối thoại tại nơi làm việc trong trường hợp sau đây:
    a) Định kỳ ít nhất 01 năm một lần.
    b) Khi có yêu cầu của một hoặc các bên.
   c) Khi có vụ việc quy định tại điểm a khoản 1 Điều 36, Điều 42, Điều 44, Điều 93, Điều 104, Điều 118 và khoản 1 Điều 128 của Bộ luật Lao động 2019.
    Nội dung đối thoại tại nơi làm việc: Ngoài nội dung đối thoại bắt buộc theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 63 của Bộ luật Lao động 2019, các bên có thể lựa chọn một hoặc một số nội dung sau đây để tiến hành đối thoại:
    a) Tình hình sản xuất, kinh doanh của người sử dụng lao động;
    b) Việc thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, nội quy lao động, quy chế và cam kết, thỏa thuận khác tại nơi làm việc.
    c) Điều kiện làm việc;
    d) Yêu cầu của người lao động, tổ chức đại diện người lao động đối với người sử dụng lao động;
    đ) Yêu cầu của người sử dụng lao động đối với người lao động, tổ chức đại diện người lao động;
    e) Nội dung khác mà một hoặc các bên quan tâm.
    Thành phần tham gia đối thoại
    Điều 38 Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định về số lượng, thành phần tham gia đối thoại (theo khoản 2 Điều 63 của Bộ luật Lao động) như sau:
    - Phía người sử dụng lao động:
    Căn cứ điều kiện sản xuất, kinh doanh, tổ chức lao động, người sử dụng lao động quyết định số lượng, thành phần đại diện cho mình để tham gia đối thoại bảo đảm ít nhất 03 người, trong đó có người đại diện theo pháp luật của người sử dụng lao động và quy định trong quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc.
    - Phía người lao động:
    + Căn cứ điều kiện sản xuất, kinh doanh, tổ chức lao động, cơ cấu, số lượng lao động và các yếu tố bình đẳng giới, tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở và nhóm đại diện đối thoại của người lao động xác định số lượng, thành phần tham gia đối thoại nhưng phải bảo đảm số lượng như sau:
     - Ít nhất 03 người, nếu người sử dụng lao động sử dụng dưới 50 người lao động;
    - Ít nhất từ 04 người đến 08 người, nếu người sử dụng lao động sử dụng từ 50 người lao động đến dưới 150 người lao động;
    - Ít nhất từ 09 người đến 13 người, nếu người sử dụng lao động sử dụng từ 150 người lao động đến dưới 300 người lao động;
    - Ít nhất từ 14 người đến 18 người, nếu người sử dụng lao động sử dụng từ 300 người lao động đến dưới 500 người lao động;
   - Ít nhất từ 19 đến 23 người, nếu người sử dụng lao động sử dụng từ 500 đến dưới 1.000 người lao động;
   - Ít nhất 24 người, nếu người sử dụng lao động sử dụng từ 1.000 người lao động trở lên.
   + Căn cứ số lượng người đại diện đối thoại của bên người lao động quy định như trên, tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở và nhóm đại diện đối thoại của người lao động xác định số lượng đại diện tham gia đối thoại tương ứng theo tỷ lệ thành viên của tổ chức và nhóm mình trên tổng số lao động của người sử dụng lao động.
    - Khi tiến hành đối thoại, ngoài các thành viên tham gia đối thoại quy định, hai bên thống nhất mời tất cả người lao động hoặc một số người lao động liên quan cùng tham gia đối thoại, bảo đảm có sự tham gia của đại diện lao động nữ khi đối thoại về các nội dung liên quan đến quyền, lợi ích của lao động nữ theo quy định.
    Quy trình tổ chức đối thoại định kỳ tại nơi làm việc
    Theo Điều 39 Nghị định 145/2020/NĐ-CP, chủ sử dụng lao động lưu ý một số nội dung khi tổ chức đối thoại định kỳ tại nơi làm việc như sau:
    1. Thành phần tham gia đối thoại định kỳ như đã nêu trên.
    2. Thời gian, địa điểm, cách thức tổ chức đối thoại định kỳ do hai bên sắp xếp phù hợp với điều kiện thực tế và theo quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc.
    3. Chậm nhất 05 ngày làm việc trước ngày bắt đầu tổ chức đối thoại định kỳ, các bên có trách nhiệm gửi nội dung đối thoại cho bên tham gia đối thoại.
    4. Đối thoại định kỳ chỉ được tiến hành khi bên người sử dụng lao động có sự tham gia của người đại diện theo pháp luật hoặc người được ủy quyền và bên người lao động có sự tham gia của trên 70% tổng số thành viên đại diện quy định như đã nêu trên. Diễn biến đối thoại phải được ghi thành biên bản và có chữ ký của người đại diện theo pháp luật của người sử dụng lao động hoặc người được ủy quyền và chữ ký của người đại diện từng tổ chức đại diện người lao động (nếu có) và của người đại diện cho nhóm đại diện đối thoại của người lao động (nếu có).
    5. Chậm nhất 03 ngày làm việc kể từ khi kết thúc đối thoại, người sử dụng lao động có trách nhiệm công bố công khai tại nơi làm việc những nội dung chính của đối thoại; tổ chức đại diện người lao động (nếu có), nhóm đại diện đối thoại của người lao động (nếu có), phổ biến những nội dung chính của đối thoại đến người lao động là thành viên.
    Ngoài ra, Bộ Luật khuyến khích người sử dụng lao động và người lao động hoặc tổ chức đại diện người lao động tiến hành đối thoại ngoài những trường hợp quy định nêu trên.
    Trách nhiệm đối thoại tại nơi làm việc là bắt buộc đối với người sử dụng lao động, ít nhất 01 năm 01 lần, có chế tài xử phạt theo Điều 15 của Nghị định số 12/2022/NĐ-CP ngày 17 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, vì vậy chủ doanh nghiệp lưu ý thực hiện. Để thiết thực, trong thời gian này, chủ doanh nghiệp có thể lựa chọn nội dung liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên như lương, thưởng Tết và các nội dung khác có liên quan, thống nhất được ý kiến chung để cùng mục tiêu phấn đấu, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình đúng quy định của pháp luật.
Nguyễn Văn Dũng
 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Việc làm Bình Phước
Công báo Chính phủ
DVC Quốc gia
Ecom Binh Phuoc
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập2,650
  • Hôm nay440,196
  • Tháng hiện tại9,870,335
  • Tổng lượt truy cập469,763,022
ỨNG DỤNG
1 bp today
3 dhtn
2 ioffice
4 congbao
Bqlkkt_phong chong covid
Portal_Ispeed
sổ tay đảng viên
Tạp chi
KQ TTHC
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây