Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với thương mại toàn cầu, các hàng rào thương mại truyền thống dần dần được dỡ bỏ, các cam kết mở cửa thị trường được đẩy mạnh cùng với sự gia tăng của các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Đây được xem là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc các biện pháp phòng vệ thương mại ngày càng được sử dụng nhiều như một công cụ hợp pháp để tăng bảo hộ sản xuất trong nước.
Xu hướng bảo hộ gia tăng
Thống kê từ Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương), tính đến tháng 10, đã có hơn 140 vụ việc khởi xướng điều tra phòng vệ thương mại liên quan tới hàng xuất khẩu của Việt Nam. Chủ yếu tập trung vào kiện chùm, kiện chống lẩn tránh thuế, kiện domino, kiện kép (kiện đồng thời chống bán phá giá và chống trợ cấp).
Điển hình một số vụ việc có tác động tiêu cực đến sản xuất của doanh nghiệp trong nước như Hoa Kỳ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ với pin năng lượng mặt trời, thép cán nguội và thép carbon chống mòn, tôm, cá da trơn... Australia điều tra chống bán phá giá với dây thép; Canada điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với sản phẩm khớp nối bằng đồng của Việt Nam…
Ông Chu Thắng Trung, Phó Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại cho biết, hàng hoá là đối tượng bị điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại vô cùng đa dạng, từ các mặt hàng nông, thủy sản cho đến các sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo.
Nếu như trước đây, chỉ những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn mới bị kiện thì hiện nay ngay cả những mặt hàng có kim ngạch nhỏ cũng phải đối mặt với các vụ kiện. Có thể nói, bất cứ hàng hoá xuất khẩu nào cũng có khả năng là đối tượng bị điều tra áp dụng phòng vệ thương mại.
Cũng theo ông Chu Thắng Trung, trong số các quốc gia “thường xuyên” áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại với Việt Nam, Hoa Kỳ nổi lên là thị trường khó tính nhất, chiếm tới 22% tổng số vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp mà hàng hóa xuất khẩu Việt Nam phải đối mặt ở nước ngoài. Tiếp đến là các thị trường khác như: Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Australia, EU, Canada…
Thời gian gần đây, nhiều nước trong khu vực như Indonesia, Thái Lan cũng đã đẩy mạnh các vụ kiện phòng vệ thương mại với Việt Nam. Nhiều dòng sản phẩm bị áp thuế bổ sung ở mức 25%, 35%, thậm chí lên tới từ 200-250%.
Ở chiều ngược lại, Việt Nam mới chỉ thực hiện điều tra, khởi kiện 4 vụ việc phòng vệ thương mại liên quan tới chống bán phá giá, chống lẩn tránh thuế, chủ yếu từ thị trường Trung Quốc.
Theo số liệu mới đây từ Hiệp hội Thép Việt Nam, 9 tháng qua, Việt Nam đã xuất khẩu sắt thép thành phẩm và bán thành phẩm hơn 5,79 triệu tấn với kim ngạch hơn 4,3 tỷ USD, tăng lần lượt 47% về lượng và tăng 42% về giá trị. ASEAN vẫn là thị trường xuất khẩu chính chiếm 55,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu thép, tiếp theo là Hoa Kỳ hơn 15%, EU hơn 9%...
Rất nhiều vụ kiện đối với ngành thép Việt Nam trong thời gian qua xuất phát từ việc thị trường Trung Quốc lẩn tránh thuế bằng cách chuyển sản phẩm qua Việt Nam gia công để lấy xuất xứ từ Việt Nam.
Việc gian lận thương mại này gây ảnh hưởng lớn đến hàng Việt khi xuất khẩu sang các thị trường, làm thu hẹp thị trường hàng Việt. Trong khi đó, hàng gian lận của Trung Quốc lại được hưởng lợi một cách thiếu minh bạch. Điều này khiến cho nhiều doanh nghiệp làm ăn chân chính bị mất uy tín trên thị trường.
Lý giải thêm về nguyên nhân gia tăng các vụ kiện về phòng vệ thương mại, giới phân tích cho rằng các chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu đang ngày càng được mở rộng và liên kết nhiều quốc gia với nhau cũng là lý do tác động đến các biện pháp phòng vệ thương mại. Vì thế, các vụ kiện về phòng vệ thương mại phát sinh những xu hướng mới như kiện chùm, kiện chống lẩn tránh thuế, kiện kép… làm gia tăng số lượng các vụ kiện về phòng vệ thương mại.
Cần chủ động ứng phó
Nhận định từ các chuyên gia cũng cho thấy, trước các rào cản thương mại, doanh nghiệp Việt dường như bị động, thiếu thông tin, thậm chí thiếu nguồn nhân lực có kinh nghiệm về phòng vệ thương mại dẫn đến bị thua thiệt.
Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh, các doanh nghiệp Việt Nam đã chú ý nhiều hơn tới các biện pháp phòng vệ thương mại, cả trong lĩnh vực khởi kiện và kháng kiện.
“Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy là trong khi các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhận thức rất tốt về phòng vệ thương mại thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại chưa chú ý đúng mức tới công cụ được coi là ‘van an toàn’ của dòng chảy hội nhập”, Bộ trưởng nhận định.
Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nhấn mạnh, biện pháp phòng vệ thương mại là để bảo vệ cho một ngành sản xuất chứ không phải một doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp cụ thể. Do vậy, cơ quan điều tra cần có đầy đủ thông tin từ tất cả các thành phần liên quan trong ngành sản xuất đó, từ các nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, nhà cung cấp nguyên liệu, nhà sản xuất hạ nguồn và cả người tiêu dùng cuối cùng để có thể đưa ra quyết định khách quan và chính xác về vụ việc.
Trong một số vụ việc Việt Nam đã điều tra, có hiện tượng một số doanh nghiệp liên quan không hợp tác đầy đủ trong việc cung cấp thông tin hoặc chỉ “kêu cứu” sau khi cơ quan quản lý Nhà nước đã kết thúc quá trình điều tra và đưa ra kết luận cuối cùng.
Còn theo bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI), hầu hết các vụ kiện chống bán phá giá thường có thời hạn rất ngắn, các yêu cầu về kỹ thuật lại phức tạp, trong khi doanh nghiệp Việt Nam không phải lúc nào cũng sẵn sàng cho các vụ kiện ở nước ngoài...
Cục Phòng vệ thương mại cho biết, hiện nay tại các vụ kiện phòng vệ thương mại chỉ có sự góp mặt của các doanh nghiệp lớn mà thiếu vắng sự tham gia của những doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp sản xuất tại các lĩnh vực dễ tổn thương. Vì thế, trước bối cảnh Việt Nam tham gia vào các Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới thì điều này đã tạo ra những rào cản không nhỏ trong lĩnh vực phòng vệ để bảo vệ chính mình.
Một trong những quy định bắt buộc của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và pháp luật Việt Nam là các tổ chức, cá nhân đứng đơn yêu cầu áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại phải đáp ứng yêu cầu “đại diện” cho ngành sản xuất trong nước, tức là phải chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng của ngành.
Đây cũng là yếu tố mà các doanh nghiệp nhỏ gặp khó khăn hơn các doanh nghiệp lớn. Hạn chế về tính đại diện và nguồn lực là hai nguyên nhân căn bản dẫn tới việc trong thời gian vừa qua nguyên đơn của các vụ kiện thường là các doanh nghiệp lớn.
Để phòng tránh những thiệt hại từ những vụ kiện phòng vệ thương mại cũng như áp dụng các công cụ phòng vệ thương mại nhằm bảo vệ chính mình, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho rằng: Trong cả khởi kiện và kháng kiện, doanh nghiệp cần xem xét phòng vệ thương mại là một chiến lược kinh doanh dài hạn.
Đối với khởi kiện, doanh nghiệp cần theo dõi sát sao tình hình giá cả hàng hóa trên thị trường nội địa, tìm hiểu các văn bản quy phạm pháp luật về phòng vệ thương mại để phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước. Cùng với đó, tìm hiểu quy trình thủ tục để có thể tham vấn, sử dụng ngay biện pháp phù hợp khi có hiện tượng hàng hóa nước ngoài gây sức ép cạnh tranh không công bằng.
Với kháng kiện, các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu Việt Nam cần tập trung nâng cao khả năng cạnh tranh, xem xét chiến lược xuất khẩu để phòng ngừa rủi ro, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng thương mại gần đây giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Cùng với đó, các doanh nghiệp cần thường xuyên liên lạc với Bộ Công Thương để được tư vấn kịp thời về những thay đổi pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật của các thị trường xuất khẩu. Từ đó, có thể hoạt động kinh doanh trong hành lang pháp lý an toàn, đảm bảo sự ổn định và phát triển lâu dài.
Dưới góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Thanh Trung, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Tôn Đông Á cho biết, để khắc phục những khó khăn của các biện pháp bảo hộ, Tôn Đông Á đã tập trung đầu tư công nghệ để sản xuất ra sản phẩm thép có chất lượng cao. Công nghệ tốt sẽ giúp bảo đảm tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm thép Việt Nam thuận lợi và tự tin hơn khi bước ra sân chơi quốc tế. Đồng thời, hạn chế việc áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại từ các nước./.