“Bộ Tài chính Việt Nam cam kết đồng hành và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp hai nước Việt Nam – Nhật Bản”

Thứ hai - 09/10/2017 10:43
Đó là lời khẳng định của Bộ trưởng Bộ Tài chính Việt Nam Đinh Tiến Dũng tại Hội nghị Xúc tiến Đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam được tổ chức sáng ngày 21/8/2017 tại thành phố Tokyo, Nhật Bản. Đây là một nội dung làm việc của Đoàn công tác Bộ Tài chính Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng dẫn đầu sang thăm và làm việc tại Nhật Bản trong các ngày từ 20/8 – 23/8/2017. Với mục tiêu thúc đẩy và triển khai quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Nhật Bản trong lĩnh vực tài chính.
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng chủ trì Hội nghị Xúc tiến Đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng chủ trì Hội nghị Xúc tiến Đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam

Sáng 21/8, tại Tòa nhà GranTokyo North Tower, thành phố Tokyo, Nhật Bản, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng chủ trì Hội nghị Xúc tiến Đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam. Với mục tiêu tổ chức nhằm tăng cường đối thoại doanh nghiệp để thúc đẩy quá trình cổ phần hóa, thúc đẩy hoạt động đầu tư gián tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam (thu hút các công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư của Nhật Bản mua trái phiếu Chính phủ để phục vụ tái cơ cấu nợ công; thu hút vốn đầu tư nước ngoài để thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước), tiếp nối kết quả của Hội nghị xúc tiến đầu tư Việt Nam được tổ chức vào ngày 5/6/2017 tại Tokyo nhân chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và cập nhật thêm về các chính sách thu hút đầu tư gián tiếp kể từ sau Hội nghị xúc tiến đầu tư tại Nhật Bản do Bộ Tài chính (UBCKNN) đã tổ chức tháng 4/2014, Hội nghị lần này đã thu hút sự quan tâm và tham dự của gần 170 đại biểu đại diện cho các doanh nghiệp hàng đầu của Việt Nam và Nhật Bản.

Khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã có bài phát biểu quan trọng, trong đó Bộ trưởng gửi lời gửi lời chào thân ái đến các doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản, hoan nghênh các đại biểu đã đến tham dự Hội nghị Xúc tiến Đầu tư của Bộ Tài chính Việt Nam. Bộ trưởng bày tỏ vui mừng nhận thấy trong khán phòng hôm nay ngoài các đại biểu đến từ cơ quan quản lý của Việt Nam, còn có rất nhiều đại diện Lãnh đạo đến từ các doanh nghiệp của hai nước Việt Nam – Nhật Bản.

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng khẳng định, sau gần 45 năm chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, có thể nói quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Nhật Bản chúng ta đã phát triển mạnh mẽ và đang ở vào giai đoạn tốt nhất trong lịch sử. Nhật Bản đã trở thành đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam và Việt Nam cũng đã trở thành đối tác quan trọng của Nhật Bản tại Đông Nam Á. Lãnh đạo cấp cao hai nước duy trì thường xuyên các chuyến thăm và tiếp xúc tại các diễn đàn quốc tế và khu vực.

Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, chiếm khoảng 30% tổng số vốn cam kết ODA của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam. Đến tháng 7/2017 đã có 122 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam, trong đó Nhật Bản đứng thứ hai với 46,47 tỷ USD (chiếm 15% tổng vốn đầu tư). Bên cạnh đó, một loạt các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã và đang được ký kết, trong đó có Hiệp định giữa Việt Nam và Nhật Bản về đối tác kinh tế (VJEPA - Hiệp định đã ký vào ngày 15/12/2008 và có hiệu lực vào ngày 01/10/2009) và các FTA đã tham gia trong những năm gần đây tạo ra dòng chảy thương mại giữa các quốc gia và các đối tượng tham gia. Với trị giá kim ngạch thương mại đạt 30 tỷ đô la Mỹ, hiện nay Nhật Bản là đối tác thương mại lớn thứ 4 trong tổng số hơn 200 quốc gia, vùng lãnh thổ mà Việt Nam có quan hệ ngoại thương.

Trong bối cảnh đó, các chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao hai nước mà đặc biệt là chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản Sin-dô A-bê vào tháng 1/2017 và gần đây nhất là chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tới Nhật Bản trong tháng 06 vừa qua đã làm sâu sắc hơn quan hệ hai nước trên mọi lĩnh vực; thúc đẩy liên kết giữa hai nền kinh tế cả ở cấp trung ương và địa phương thông qua tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực như đầu tư, thương mại, ODA, lao động, nông nghiệp, trao đổi về các vấn đề khu vực và quốc tế hai bên cùng quan tâm vì hòa bình, ổn định và sự phồn vinh chung tại khu vực và trên thế giới nói chung.

Theo Bộ trưởng, Việt Nam là nền kinh tế mở, quy mô thương mại đạt 360 tỷ đô la Mỹ, gấp hơn 1,6 lần GDP; thu hút được hơn 300 tỷ đô la Mỹ tổng vốn FDI đăng ký. Khu vực doanh nghiệp FDI đóng góp 70% giá trị xuất khẩu, chiếm khoảng gần 22% GDP, tạo ra hàng triệu việc làm cũng như thúc đẩy đổi mởi mô hình tăng trưởng. Với quy mô dân số đang tiệm cận 100 triệu dân, trong đó 60% có độ tuổi dưới 35, Việt Nam có lợi thế về khả năng cung cấp một lực lượng lao động trẻ, dồi dào, có chất lượng với chi phí cạnh tranh. Việt Nam luôn có sự ổn định về chính trị, xã hội và kinh tế vĩ mô; thể chế luật pháp và sự minh bạch của Việt Nam không ngừng được cải thiện, từng bước phù hợp với các cam kết và chuẩn mực quốc tế, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp yên tâm hoạt động lâu dài, phát triển.

Theo đó, Nhà đầu tư Nhật Bản tin tưởng vào thị trường Việt Nam và điêu này được thể hiện trong một báo cáo vừa được Tổ chức Xúc tiến Mậu dịch Nhật Bản công bố gần đây, môi trường đầu tư ở Việt Nam đã nhận được đánh giá tích cực của cộng đồng doanh nghiệp Nhật Bản. 90% doanh nghiệp Nhật Bản tin rằng mở rộng kinh doanh tại Việt Nam giúp họ tăng doanh thu; và 63% các doanh nghiệp Nhật Bản đã có lãi trong năm 2016 và 66,6% doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam đang có kế hoạch mở rộng kinh doanh và tiếp tục coi Việt Nam là một điểm đầu tư quan trọng. Đây là tỷ lệ cao nhất so với các doanh nghiệp Nhật Bản đang đầu tư ở 19 quốc gia và vùng lãnh thổ khác.

Bộ trưởng khẳng định, Chính phủ Việt Nam ghi nhận và đánh giá rất cao sự tin tưởng và sự hiện diện của các tập đoàn tài chính, các nhà đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam. Tuy nhiên, đầu tư gián tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam hiện nay còn khá khiêm tốn so với tiềm năng của nhà đầu tư Nhật Bản và so với khả năng hấp thụ vốn đầu tư của thị trường Việt Nam. Như vậy, mảng thị trường tài chính vẫn còn nhiều dư địa mới cho hợp tác giữa hai nước, và còn nhiều tiềm năng cho các nhà đầu tư Nhật Bản.

Đánh giá về kinh tế thế giới nửa đầu năm 2017, Bộ trưởng nhận định đã có nhiều tín hiệu cải thiện. Một số nền kinh tế đầu tàu tiếp tục ghi nhận sự chuyển biến đáng chú ý, hoạt động sản xuất và thương mại toàn cầu đã lấy lại đà tăng trưởng, niềm tin thị trường được nâng cao trong khi các điều kiện tài chính cũng diễn biến tương đối thuận lợi. Sự chuyển biến rõ nét trong hoạt động kinh tế được ghi nhận tại nhiều quốc gia phát triển, trong đó nổi bật nhất là tại Nhật Bản nhờ sự hồi phục của cầu nội địa và những diễn biến tích cực của khu vực xuất khẩu.

image

Hội nghị đã thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp Việt Nam – Nhật Bản

Trong bối cảnh nền kinh tế các nước đang trên đà khởi sắc, nền kinh tế Việt Nam cũng tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Việt Nam là một nền kinh tế tăng trưởng nhanh với tốc độ bình quân khoảng gần 6%/ năm trong 30 năm qua. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 tháng đầu năm 2017 ước tăng 5,73% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) do Nikkei công bố, đạt mức cao trong 22 tháng vừa qua và cao nhất trong khu vực ASEAN, thể hiện sức mua và năng lực sản xuất tăng ổn định, liên tục. Bình quân 6 tháng đầu năm 2017, chỉ số CPI tăng 4,15% so với bình quân cùng kỳ 2016. Tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm đã tăng mạnh nhất trong vòng 6 năm trở lại đây đạt 7,54%, cho thấy khả năng hấp thụ vốn của doanh nghiệp tương đối tốt và thu nhập lãi của các ngân hàng có sự cải thiện đáng kể. Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay tương đối ổn định. Nhìn chung, cơ cấu tín dụng đang tiếp tục theo hướng tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên, các dự án lớn, trọng điểm theo chủ trương của Chính phủ.

Vốn đầu tư toàn xã hội tiếp tục gia tăng, thực hiện 6 tháng đầu năm 2017 theo giá hiện hành ước tính đạt 30,16 tỷ đô la Mỹ, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước và bằng 32,8% GDP. Trong đó, vốn đầu tư từ khu vực tư nhân vẫn là động lực dẫn dắt tăng trưởng tổng vốn đầu tư toàn xã hội khi chiếm 38,7% tổng vốn; vốn khu vực Nhà nước chiếm 35,9%; và vốn đầu tư từ khu vực nước ngoài hiện chiếm 25,4% tổng vốn.

Kinh tế Việt Nam được duy trì ổn định và tăng trưởng một phần do Chính phủ tiếp tục ban hành những chính sách quan trọng trong công tác quản lý, điều tiết kinh tế, trong đó có Chỉ thị số 24/CT-TTg ngày 2/6/2017 về các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng các ngành, lĩnh vực nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2017. Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 6/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2016 theo tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp.

Chính phủ Việt Nam kiên định phát triển kinh tế xã hội theo cơ chế thị trường. Chiến lược Phát triển Kinh tế Xã hội giai đoạn 2011-2020 của Việt Nam sẽ tập trung vào cải cách cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, đảm bảo bền vững môi trường, bình đẳng xã hội cũng như các vấn đề mới phát sinh trong quá trình ổn định kinh tế vĩ mô. Để thực hiện được mục tiêu đó, chiến lược đã xác định ba lĩnh vực đột phá bao gồm:

(i) Phát triển nguồn nhân lực (nhất là nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghiệp hiện đại và đổi mới sáng tạo);

(ii) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường;

(iii) Phát triển hạ tầng: để thực hiện các mục tiêu chiến lược này, nhu cầu về vốn là rất lớn, đặc biệt là các nguồn vốn đi kèm với chuyên môn và kinh nghiệm phát triển.

Chính phủ Việt Nam cũng đang hướng tới một chính phủ hiện đại qua việc cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành. Đây là yếu tố quan trọng nhằm cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Cụ thể, Chính phủ Việt Nam đã giao cho Bộ Tài chính chủ trì thực hiện rút ngắn thời gian thông quan, giảm thủ tục hành chính lĩnh vực thuế, ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực tài chính...

Về triển vọng chính sách vĩ mô, trong thời gian tới, Bộ trưởng cho biết Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục tập trung:

Thứ nhất, đối với chính sách tài khóa: (i) kiên trì chính sách tài khóa chặt chẽ, tiết kiệm, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; tiến hành tái cơ cấu lại NSNN, điều chỉnh chính sách thu hợp lý, quản lý chi tiết kiệm và kiểm soát mức bội chi; (ii) tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng; (iii) bảo đảm an toàn nợ công và nợ nước ngoài; (iv) nâng cao mức độ tín nhiệm quốc gia; (v) phối hợp chặt chẽ với chính sách tiền tệ nhằm bảo đảm ổn định vĩ mô.

Thứ hai, đối với chính sách tiền tệ: (i) kiểm soát lạm phát; (ii) bảo đảm an toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng; (iii) nâng cao dự trữ ngoại tệ quốc gia

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, cải cách DNNN đã được Chính phủ Việt Nam thực hiện gần 20 năm qua gắn liền với quá trình sắp xếp đổi mới và cổ phần hóa khu vực DNNN. Trong giai đoạn từ năm 2011 đến nay, nhiều quyết sách mới đã được triển khai nhằm nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước, thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp này theo cơ chế thị trường, đồng thời phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Trong thời gian qua các cơ chế chính sách về quản lý tài chính doanh nghiệp và sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã được ban hành đầy đủ, đồng bộ và được điều chỉnh, bổ sung để phù hợp với thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp và tình hình thị trường, giúp doanh nghiệp triển khai kế hoạch cổ phần hóa doanh nghiệp theo Đề án tái cơ cấu được cấp có thẩm quyền phê duyệt và thực hiện thoái vốn đầu tư ngoài ngành để có vốn tập trung đầu tư vào lĩnh vực, ngành kinh doanh chính, tránh đầu tư dàn trải, hạn chế thất thoát vốn và tài sản nhà nước.

Bộ trưởng cho biết, trong thời gian tới Việt Nam sẽ tập trung: (i) quyết tâm thực hiện cổ phần hóa DNNN, thoái vốn ngoài ngành theo kế hoạch, đặc biệt là cổ phần hóa các DNNN có quy mô lớn; (ii) áp dụng nguyên tắc quản trị hiện đại và công bố thông tin công khai, minh bạch; (iii) bảo đảm hoạt động của các DNNN theo cơ chế thị trường; (iv) tăng cường giám sát đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp; (v) giảm mạnh tỷ lệ sở hữu Nhà nước tại các DNNN cổ phần hóa; (vi) cho phép dành tỷ lệ lớn để bán cho đối tác chiến lược nước ngoài; (vii) yêu cầu các DNNN cổ phần hóa niêm yết trên TTCK.

Với mục tiêu cổ phần hóa DNNN mạnh mẽ của Chính phủ, trong năm 2017 hoàn thành cổ phần hóa 44 doanh nghiệp, năm 2018 hoàn thành cổ phần hóa 64 doanh nghiệp, năm 2019 hoàn thành cổ phần hóa 18 doanh nghiệp. Chính phủ Việt Nam đánh giá cao vai trò của các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có nhà đầu tư Nhật Bản trong tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp. Trên thực tế, ngoài lượng vốn đầu tư, các thông lệ quản trị doanh nghiệp tốt, công nghệ cập nhật đi cùng sẽ giúp cải thiện chất lượng hàng hóa của thị trường. Chúng tôi mong muốn các nhà đầu tư Nhật Bản tham gia làm đối tác chiến lược trong các doanh nghiệp cổ phần hóa của Việt Nam.

Bộ trưởng nhấn mạnh, cùng với quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, cổ phần hóa DNNN, Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm đến việc phát triển một cách bền vững thị trường chứng khoán Việt Nam. TTCK Việt Nam diễn biến khởi sắc trong 8 tháng đầu năm. Đến nay, mức vốn hóa thị trường đạt trên 112 tỷ đô la Mỹ, tăng 29% so với cuối năm 2016, tương đương 55,8% GDP, mức cao nhất kể từ khi thành lập thị trường.

Bên cạnh thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu đã trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho Chính phủ, các ngân hàng chính sách, chính quyền địa phương và doanh nghiệp. Tính đến 30/6/2017, quy mô thị trường trái phiếu đạt gần 40% GDP, trong đó trái phiếu Chính phủ là 29,5% GDP.

Đặc biệt, với định hướng xây dựng thị trường mới với sản phẩm đầu tư mới nhằm thu hút nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường, ngày 10 tháng 08 năm 2017, Chính phủ đã khai trương thị trường chứng khoán phái sinh, với sản phẩm giao dịch đầu tiên là hợp đồng tương lai chỉ số VN30. Trong thời gian tới, các sản phẩm khác như Hợp đồng tương lai chỉ số HNX30 và Hợp đồng tương lai trái phiếu chính phủ cũng sắp được đưa vào giao dịch. Ngoài ra, trong tháng 11 năm 2017, sản phẩm chứng quyền đảm bảo sẽ được đưa vào triển khai.

Diễn biến khởi sắc của thị trường phải kể đến đóng góp từ hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài. TTCK tiếp tục là điểm đến hấp dẫn thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Trong đó, nhà đầu tư Nhật Bản góp vốn vào các quỹ đầu tư chứng khoán thành lập tại Việt Nam như Quỹ đầu tư Japan Asia MB Capital, Quỹ đầu tư cổ phiếu Dai-ichi Life Việt Nam, Quỹ thành viên Việt Nhật, Quỹ đầu tư Việt Nam đạt giá trị khoảng gần 53 triệu đô la Mỹ.

Trong lĩnh vực bảo hiểm, Việt Nam thực hiện đối xử công bằng giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm, bất kể theo hình thức doanh nghiệp nào, nguồn vốn đầu tư nào đều hoạt động và bảo đảm tuân thủ Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản luật liên quan. Bảo hiểm là một trong các lĩnh vực Việt Nam ưu tiên mở cửa thị trường cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tổng doanh thu phí bảo hiểm toàn thị trường 6 tháng đầu năm 2017 đạt khoảng 2 tỷ đô la Mỹ (tăng 20,77%), trong đó các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đạt 851 triệu đô la Mỹ, các doanh nghiệp nhân thọ đạt 1,24 tỷ đô la Mỹ. Như đã đề cập ở trên,thị trường bảo hiểm đã và đang bảo vệ cho hầu hết tất cả các loại hình tài sản bao gồm công trình xây dựng, tài sản của mọi thành phần kinh tế từ Nhà nước, tư nhân đến đầu tư nước ngoài. Thị trường bảo hiểm Việt Nam mặc dù tăng trưởng cao, ổn định nhưng quy mô vẫn còn nhỏ so với tiềm năng.

Bên cạnh đó, trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, hệ thống pháp lý đã ngày càng hoàn thiện; sản phẩm bảo hiểm ngày càng đa dạng và thị trường có tốc độ phát triển nhanh. Lĩnh vực bảo hiểm cũng là lĩnh vực Việt Nam ưu tiên mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài.

Về triển vọng chính sách trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm trong thời gian tới Bộ trưởng Đinh tiến Dũng khẳng định Việt Nam sẽ tập trung:

(i) Triển khai xây dựng Luật chứng khoán sửa đổi, chú trọng nâng tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong các công ty đại chúng, ngoại trừ những lĩnh vực hạn chế, kinh doanh có điều kiện.

(ii) Khơi thông dòng vốn trong nước và nước ngoài thông qua các giải pháp chính sách về nâng hạng TTCK VN từ hạng thị trường cận biên lên hạng thị trường mới nổi trên bảng xếp hạng MSCI; xây dựng các quy định về xếp hạng tín nhiệm và thiết lập tổ chức định mức tín nhiệm của Việt Nam, tạo cơ sở cho việc phát triển thị trường trái phiếu và các sản phẩm khác; thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài, thu hút các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, tháo gỡ vướng mắc với Luật đầu tư thông qua việc ban hành Luật chứng khoán sửa đổi, bổ sung.

(iii) Tiếp tục đẩy mạnh công tác cổ phần hóa, thoái vốn của các DNNN gắn với việc niêm yết và đăng ký giao dịch; bổ sung phương thức dựng sổ vào Nghị định cổ phần hóa; triển khai cơ chế tạo lập thị trường, phát hành bộ Nguyên tắc quản trị công ty; tăng cường kiểm tra, giám sát về tính minh bạch các thông tin trong Báo cáo tài chính của các công ty đại chúng về vấn đề sử dụng vốn, công bố thông tin và quản trị công ty.

(iv) Triển khai đề án phát triển trái phiếu doanh nghiệp; hoàn thiện phương án tổ chức thị trường trái phiếu doanh nghiệp và công tác chuẩn bị để có thể đưa thị trường giao dịch trái phiếu doanh nghiệp vào hoạt động trong năm 2018; khuyến khích các công ty đưa trái phiếu lên niêm yết.

Về mục tiêu Việt Nam sẽ kiên định chủ động đẩy mạnh hội nhập quốc tế với trọng tâm là hội nhập kinh tế.Bộ trưởng khẳng định Việt Nam sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 GDP bình quân 6,5 - 7%/năm, phát triển bền vững, ổn định, xanh và sạch. Qua đó, tiếp tục giữ vị thế là quốc gia năng động, điểm đến đầu tư hấp dẫn trong khu vực ASEAN và tham gia sâu hơn, vươn lên cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Với những mục tiêu trên, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng khẳng định, việc Bộ Tài chính Việt Nam phối hợp với các đối tác Nhật Bản tổ chức Hội nghị xúc tiến đầu tư ngày hôm nay nhằm tạo một kênh đối thoại thực chất giúp cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư Nhật Bản hiểu rõ hơn tình hình Việt Nam, hiểu rõ hơn chủ trương và quyết tâm đổi mới của Chính phủ Việt Nam, và quan trọng nhất là củng cố lòng tin của nhà đầu tư Nhật Bản đối với tiềm năng phát triển của thị trường Việt Nam. “Chúng tôi mong rằng sau Diễn đàn này, các doanh nghiệp hai nước sẽ có thêm nhiều ý tưởng và dự án hợp tác mới để làm sâu sắc hơn hợp tác kinh tế cũng như quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam – Nhật Bản. Bộ Tài chính Việt Nam cam kết đồng hành và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp hai nước, thành công của các bạn cũng là thành công của chúng tôi” Bộ trưởng nhấn mạnh.

Cũng nhân Hội nghị lần này, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng gửi lời chân thành cảm ơn Tập đoàn Tài chính Daiwa-Nhật Bản, đã có rất nhiều nỗ lực phối hợp với Bộ Tài chính để tổ chức Hội nghị này. Bộ trưởng mong rằng Tập đoàn Tài chính Daiwa và các cơ quan, tổ chức liên quan phía Nhật Bản tiếp tục phối hợp, hỗ trợ Việt Nam đạt hiệu quả cao hơn nữa trong công tác xúc tiến đầu tư và hỗ trợ các doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư tại Việt Nam.

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng gửi lời chúc Nhật Bản tiếp tục thành công, chúc cho quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam- Nhật Bản ngày càng hiệu quả và sâu sắc hơn.

* Căn cứ chương trình của Đoàn công tác Bộ Tài chính Việt Nam, Cổng TTĐT Bộ Tài chính sẽ tiếp tục thông tin về những nội dung làm việc của Đoàn tại Nhật Bản.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Việc làm Bình Phước
Công báo Chính phủ
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập1,113
  • Hôm nay377,461
  • Tháng hiện tại7,512,236
  • Tổng lượt truy cập452,907,358
KQ TTHC
sổ tay đảng viên
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây