Điểm mới của Luật Tổ chức Chính quyền địa phương năm 2025 so với Luật năm 2015 (sửa đổi năm 2019)
HT. Thanh Lan – Phòng XDCQ
Ngày 19/02/2025, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2025. Luật có hiệu lực kể từ ngày 01/3/2025 gồm 7 chương và 50 điều, giảm 1 chương và 93 điều (so với Luật Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015). Theo đó, Luật quy định: (1) Tổ chức chính quyền địa phương ở các đơn vị hành chính, phân loại đơn vị hành chính, quy định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương cũng như quan hệ công tác giữa chính quyền địa phương với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương; (2) Nguyên tắc tổ chức đơn vị hành chính và điều kiện thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính; Thẩm quyền quyết định thành lập, trình tự, thủ tục thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới và đổi tên đơn vị hành chính. (3) Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương các cấp; (4) Quy định nhiệm vụ, quyền hạn, (5) tổ chức và hoạt động, của chính quyền địa phương; (6) Tổ chức chính quyền địa phương trong trường hợp thay đổi địa giới đơn vị hành chính và các trường hợp đặc biệt khác; (7) Các quy định về việc thực hiện Luật.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 (Luật 2025) có nhiều điểm mới so với Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (Luật 2015) và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019 (Luật 2019). Một số nội dung đáng chú ý, cụ thể như sau:
Về đơn vị hành chính (Điều 1)
Luật 2025 bổ sung quy định cho phép đơn vị hành chính cấp huyện ở các đảo, quần đảo có thể không tổ chức ĐVHC cấp xã.
Về tổ chức chính quyền địa phương ở các ĐVHC (Điều 2)
Luật 2025 bổ sung quy định trường hợp Quốc hội có quy định về việc không tổ chức cấp chính quyền địa phương tại đơn vị hành chính cụ thể thì chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính đó là Ủy ban nhân dân. Chính quyền địa phương tại đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do Quốc hội quy định khi thành lập.
Về phân loại ĐVHC (Điều 3)
Luật 2025 không quy định cụ thể loại ĐVHC và giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định cụ thể nội dung này.
Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương (Điều 4)
- Luật 2025 quy định Hội đồng nhân dân làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương hoạt động theo chế độ tập thể Ủy ban nhân dân kết hợp với đề cao trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân. [Khoản 3 và khoản 4 Điều 5 Luật 2015: Hội đồng nhân dân làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số; Ủy ban nhân dân hoạt động theo chế độ tập thể Ủy ban nhân dân kết hợp với trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân]
- Luật 2025 bổ sung quy định tổ chức chính quyền địa phương tinh, gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu quản trị địa phương chuyên nghiệp, hiện đại, minh bạch, bảo đảm trách nhiệm giải trình gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực; những công việc thuộc thẩm quyền của chính quyền địa phương phải do địa phương quyết định, địa phương tổ chức thực hiện và tự chịu trách nhiệm.
Về Hội đồng nhân dân (Điều 5)
- Về tiêu chuẩn của đại biểu Hội đồng nhân dân:
+ Luật 2025 quy định đại biểu Hội đồng nhân dân chỉ có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam. [Khoản 1a Điều 7 Luật 2019: Có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam]
+ Luật 2025 bổ sung quy định đại biểu Hội đồng nhân dân phải cư trú hoặc công tác tại cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp ở đơn vị hành chính mà mình là đại biểu Hội đồng nhân dân.
Về Ủy ban nhân dân (Điều 6)
Luật 2025 bổ sung quy định UBND ở nơi không tổ chức cấp chính quyền địa phương là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên trực tiếp.
Về Quan hệ công tác giữa chính quyền địa phương với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương (Điều 7)
- Luật 2025 sửa đổi, bổ sung quy định:
+ Chính quyền địa phương phối hợp và phát huy vai trò của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội [Khoản 1 Điều 15 Luật 2015: Chính quyền địa phương tạo điều kiện để Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội...]
+ Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân cùng cấp; được mời tham dự phiên họp của Ủy ban nhân dân cùng cấp khi bàn về các vấn đề có liên quan. Người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương được mời tham dự kỳ họp Hội đồng nhân dân, phiên họp của Ủy ban nhân dân cùng cấp khi bàn về các vấn đề có liên quan. [ Khoản 2 Điều 15 Luật 2015: Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương được mời tham dự các kỳ họp Hội đồng nhân dân, phiên họp Ủy ban nhân dân cùng cấp khi bàn về các vấn đề có liên quan.]
Về Nguyên tắc tổ chức đơn vị hành chính và điều kiện thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính (Điều 8, 9, 10): Luật 2025 đã kế thừa và có bổ sung quy định cụ thể về nguyên tắc tổ chức đơn vị hành chính tại khoản 1 Điều 8.
Về Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương (Điều 11)
- Luật 2025 quy định việc phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương phải bảo đảm nhiều nguyên tắc như: Xác định rõ nội dung và phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn mà chính quyền địa phương được quyết định, tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm về kết quả; bảo đảm không trùng lặp, chồng chéo về nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan Nhà nước ở Trung ương và địa phương, giữa chính quyền địa phương các cấp và giữa các cơ quan, tổ chức thuộc chính quyền địa phương. Cùng với yêu cầu đảm bảo tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và thực hiện có hiệu quả việc kiểm soát quyền lực; Đáp ứng yêu cầu quản trị địa phương; ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
- Luật 2025 bổ sung quy định: Chính quyền địa phương được chủ động đề xuất với cơ quan có thẩm quyền về việc phân quyền, phân cấp cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở địa phương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp với khả năng và điều kiện thực tiễn của địa phương.
Về Phân quyền (Điều 12)
- Luật 2025 quy định: Việc phân quyền cho chính quyền địa phương các cấp phải được quy định trong luật, nghị quyết của Quốc hội, trong đó xác định rõ chủ thể thực hiện, nội dung, phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, bảo đảm các nguyên tắc phân định thẩm quyền và phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp quy định tại Luật này. [Khoản 1 Điều 12 Luật 2019: Việc phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương phải được quy định trong luật. Trong trường hợp này, luật phải quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể mà chính quyền địa phương không được phân cấp, ủy quyền cho cơ quan nhà nước cấp dưới hoặc cơ quan, tổ chức khác.]
- Luật 2025 quy định: chính quyền địa phương tự chủ trong việc ra quyết định, tổ chức thi hành và tự chịu trách nhiệm trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền; được phân cấp, ủy quyền thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền theo quy định, trừ trường hợp luật, nghị quyết của Quốc hội quy định không được phân cấp, ủy quyền. [Khoản 2 Điều 12 Luật 2015: Chính quyền địa phương tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền].
Về phân cấp (Điều 13)
- Luật 2025 quy định cụ thể: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện phân cấp cho cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc Ủy ban nhân dân cấp mình hoặc Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới thực hiện liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn mà mình được giao theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp pháp luật quy định không được phân cấp. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện phân cấp cho đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý thực hiện liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ mà mình được giao theo quy định của pháp luật để tăng quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập trong việc quản trị đơn vị và cung ứng dịch vụ công, trừ trường hợp pháp luật quy định không được phân cấp. [khoản 1 Điều 13 Luật 2015: Căn cứ vào yêu cầu công tác, khả năng thực hiện và điều kiện, tình hình cụ thể của địa phương, cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương được quyền phân cấp cho chính quyền địa phương hoặc cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện một cách liên tục, thường xuyên một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của mình, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.]
- Luật 2025 bổ sung quy định:
+ Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được phân cấp có quyền tham gia ý kiến đối với dự thảo văn bản phân cấp; đề nghị cơ quan phân cấp điều chỉnh nội dung phân cấp; chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước cơ quan phân cấp về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp, định kỳ báo cáo, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp và không được phân cấp tiếp nhiệm vụ, quyền hạn mà mình được phân cấp.
+ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ phân cấp hoặc đề xuất với Chính phủ đề nghị Quốc hội phân quyền cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở địa phương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp với khả năng và điều kiện thực tiễn của địa phương.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở địa phương được đề xuất với Ủy ban nhân dân về việc phân cấp cho mình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp với khả năng nếu đáp ứng các yêu cầu về tài chính, nguồn nhân lực và điều kiện cần thiết khác.
+ Trường hợp cần phải thay đổi trình tự, thủ tục, thẩm quyền đang được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên mới thực hiện được việc phân cấp thì cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được phân cấp đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh điều chỉnh các quy định đó để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp, bảo đảm yêu cầu về cải cách hành chính theo hướng giảm thủ tục hành chính, không quy định thêm thành phần hồ sơ, không tăng thêm yêu cầu, điều kiện, thời gian giải quyết thủ tục đang áp dụng.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, ban hành văn bản điều chỉnh trình tự, thủ tục, thẩm quyền của các cơ quan liên quan để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp; thực hiện việc công khai thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật và sau đó có trách nhiệm báo cáo cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương về ngành, lĩnh vực có liên quan về việc điều chỉnh trình tự, thủ tục, thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp tại địa phương mình.
Về Ủy quyền (Điều 14)
- Luật 2025 quy định cụ thể: Ủy ban nhân dân ủy quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân, cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Ủy ban nhân dân cấp mình hoặc Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới; Chủ tịch Ủy ban nhân dân ủy quyền cho cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác, đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới; cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện ủy quyền cho Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc Ủy ban nhân dân cấp dưới thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn mà mình được giao theo quy định của pháp luật trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể, trừ trường hợp pháp luật quy định không được phân cấp, ủy quyền.
Việc ủy quyền cho đơn vị sự nghiệp công lập chỉ thực hiện đối với các nhiệm vụ, quyền hạn nhằm tăng quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập trong việc quản trị đơn vị và cung ứng dịch vụ công.
[Khoản 1 Điều 14 Luật 2019: Trong trường hợp cần thiết, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 12 của Luật này, cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có thể ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp, Ủy ban nhân dân có thể ủy quyền cho cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc, Chủ tịch Ủy ban nhân dân có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp, người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể. Việc ủy quyền phải được thể hiện bằng văn bản.]
- Luật 2025 bổ sung một số quy định: về điều kiện Ủy quyền; Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân nhận ủy quyền có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân ủy quyền điều chỉnh nội dung, phạm vi, thời hạn ủy quyền; không được ủy quyền tiếp nhiệm vụ, quyền hạn mà mình được ủy quyền. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân nhận ủy quyền sử dụng hình thức văn bản, con dấu của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình để thực hiện nhiệm vụ được ủy quyền, trừ các trường hợp quy định tại khoản 7 Điều này. Trường hợp người đứng đầu cơ quan, tổ chức thay mặt tập thể lãnh đạo ký các văn bản của cơ quan, tổ chức; cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức thay mặt tập thể, ký thay người đứng đầu cơ quan, tổ chức; người đứng đầu cơ quan, tổ chức ủy quyền cho cấp phó, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc cơ cấu tổ chức của mình; công chức thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn ký thừa ủy quyền thì thực hiện theo quy định của Chính phủ về công tác văn thư.
Như vậy, về phân định thẩm quyền, phân cấp, phân quyền, ủy quyền giữa các cấp chính quyền địa phương tại Luật 2025 đã được điều chỉnh, bổ sung, là cơ sở pháp lý quan trọng để xác định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp chính quyền địa phương tại Luật này và các luật chuyên ngành, bảo đảm mục tiêu ‘‘mỗi nhiệm vụ chỉ giao cho một cấp chính quyền địa phương thực hiện’’, ‘‘chính quyền địa phương cấp nào giải quyết sát thực tiễn, hiệu quả hơn thì giao chính quyền địa phương cấp đó thực hiện’’.
Về nhiệm vụ, quyền hạn (Chương IV); Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương (Chương V): Luật 2025 đã bố cục lại nội dung nhiệm vụ, quyền hạn và Tổ chức và hoạt động của Chính quyền địa phương khoa học, ngắn gọn, rõ ràng theo 3 cấp tỉnh, huyện, xã.
Về Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh (Điều 15)
Luật 2025 bổ sung quy định về việc HĐND cấp tỉnh được quyết định áp dụng thí điểm các chính sách đặc thù, đặc biệt, chưa được quy định trong pháp luật để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn sau khi đã báo cáo và được Thủ tướng Chính phủ cho phép.
Về Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (Điều 17)
Luật năm 2025 bổ sung quy định: Chủ tịch UBND tỉnh được quyết định áp dụng các biện pháp cấp bách khác quy định của pháp luật trong trường hợp thật cần thiết vì lợi ích quốc gia, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân trên địa bàn, sau đó báo cáo cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Thủ tướng Chính phủ trong thời gian sớm nhất.
Nhìn chung, các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND, UBND, Chủ tịch UBND các cấp bảo đảm có sự phân biệt nhất định về phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở từng cấp, tạo cơ sở cho việc tiếp tục quy định cụ thể các nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND, UBND các cấp trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước trong các luật chuyên ngành, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tính khả thi, ổn định, lâu dài của Luật.
Về Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương ở hải đảo (Điều 25)
- Luật 2025 bổ sung quy định: Trường hợp tại đơn vị hành chính cấp huyện ở hải đảo không tổ chức đơn vị hành chính cấp xã thì Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện cả các nhiệm vụ, quyền hạn tương ứng của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Về cơ cấu tổ chức của HĐND (Điều 27)
Luật 2025 bổ sung quy định: Hội đồng nhân dân gồm Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân dân.
Về số lượng đại biểu HĐND các cấp (Điều 28)
Luật 2025 quy định cụ thể về số lượng đại biểu HĐND các cấp trên cơ sở kế thừa quy định của Luật 2015; đồng thời bổ sung quy định về số Phó Chủ tịch HĐND, số lượng Ban của HĐND tại các điều khoản để bảo đảm thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật và việc tổ chức công tác bầu cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031.
Về cơ cấu tổ chức của UBND (Điều 37)
Luật 2025 không quy định cụ thể về thành viên Ủy ban nhân dân và giao Chính phủ quy định khung số lượng Phó Chủ tịch, số lượng Ủy viên Ủy ban nhân dân các cấp, khung số lượng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; trình tự, thủ tục đề nghị Hội đồng nhân dân bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Ủy viên Ủy ban nhân dân, bảo đảm liên thông, kết nối với thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức người đứng đầu cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân; trình tự, thủ tục điều động, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, giao quyền Chủ tịch Ủy ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương.
Về tổ chức chính quyền địa phương trong trường hợp thay đổi địa giới đơn vị hành chính (Chương VI: Điều 41 – Điều 47)
Luật 2025 kế thừa, quy định cụ thể về tổ chức chính quyền địa phương khi nhập, chia, thành lập mới đơn vị hành chính; bổ sung quy định về hoạt động của Hội đồng nhân dân khi không còn đủ hai phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân.
Về điều khoản thi hành, quy định chuyển tiếp (Điều 50)
Luật 2025 đã có các quy định tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực hiện:
- Trong thời hạn 02 năm kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, các văn bản quy phạm pháp luật có nội dung quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp phải được sửa đổi, bổ sung để bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc quy định tại các điều 11, 12, 13, 14 và các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương các cấp quy định tại Luật này.
- Kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, để kịp thời đẩy mạnh phân quyền, phân cấp cho chính quyền địa phương trong một số lĩnh vực ưu tiên, cấp bách, giao Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền phân định lại nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương và điều chỉnh các quy định khác có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương để thống nhất áp dụng trong thời gian chưa sửa đổi, bổ sung các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và định kỳ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội; trường hợp liên quan đến luật, nghị quyết của Quốc hội thì báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
- Trong thời gian cơ quan có thẩm quyền chưa ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương trong các ngành, lĩnh vực phù hợp với quy định tại Luật này thì các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được tiếp tục thực hiện cho đến khi cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế.
- Tổ chức của Ủy ban nhân dân nhiệm kỳ 2021 - 2026 tiếp tục thực hiện theo cơ cấu, thành phần được quy định tại Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 21/2017/QH14, Luật số 47/2019/QH14, Luật số 31/2024/QH15, Luật số 34/2024/QH15, Luật số 43/2024/QH15, Luật số 47/2024/QH15 và Luật số 58/2024/QH15 cho đến khi có quy định của Chính phủ theo quy định tại khoản 1 Điều 37 của Luật này.
Có thể thấy, đây tiếp tục là một trong những luật được Quốc hội thông qua với tỷ lệ đại biểu Quốc hội có mặt tán thành rất cao, thể hiện sự đồng thuận rất cao của các đại biểu Quốc hội đối với việc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các luật về tổ chức bộ máy và nghị quyết có liên quan, trực tiếp phục vụ cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị cũng như các chủ trương của Trung ương nhằm thúc đẩy sự phát triển bứt phá của đất nước trong kỷ nguyên mới. Bảo đảm phương châm "địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm", "cấp nào giải quyết hiệu quả hơn thì giao nhiệm vụ, thẩm quyền cho cấp đó", cũng như yêu cầu đẩy mạnh chuyển đổi số. Luật đã đạt được mục tiêu cụ thể hoá đầy đủ quy định của Hiến pháp năm 2013 và thể chế hoá các chủ trương, định hướng trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng, nhằm tiếp tục đổi mới chính quyền địa phương theo hướng đẩy mạnh phân quyền giữa cơ quan nhà nước ở Trung ương với địa phương, tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm sự thống nhất, thông suốt của nền hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở./.