Bình Phước : Cổng thông tin điện tửhttps://binhphuoc.gov.vn/uploads/binhphuoc/quochuy_1.png
Thứ ba - 05/11/2019 11:04
Luật Bảo hiểm xã hội được Quốc hội khoá XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20/11/2014 và hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016, bao gồm 9 Chương, 125 Điều. Sau gần 4 năm thực hiện, Luật Bảo hiểm xã hội và các Nghị định của Chính phủ, Thông tư, ... của các Bộ, ngành Trung ương hướng dẫn thi hành Luật Bảo hiểm xã hội thường xuyên được ban hành, điều chỉnh đã cụ thể hoá và tạo điều kiện tốt hơn trong việc thực thi Luật Bảo hiểm xã hội. Các chế độ, quyền lợi và trách nhiệm cuả người lao động, người sử dụng lao động được bảo vệ và thực hiện tốt hơn, góp phần xây dựng mối quan hệ lao động hài hoà, ổn định, bảo đảm an sinh xã hội và hội nhập quốc tế.
Trên tinh thần đó, ở địa phương để triển khai thực hiện hiệu quả các nội dung quy định cuả Luật Bảo hiểm xã hội và đưa pháp luật về Bảo hiểm xã hội đi vào cuộc sống, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước thường xuyên chỉ đạo các ngành xây dựng văn bản tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành hoặc trực tiếp hướng dẫn, triển khai đến các doanh nghiệp, người lao động để thực hiện, nhất là những nội dung quy định về chế độ, quyền lợi của người lao động.
Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực bảo hiểm xã hội, đồng thời với sự chỉ đạo cuả Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội đã chủ động phối hợp với các Sở, ban, ngành, đoàn thể, Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố thường xuyên triển khai và hướng dẫn các nội dung quy định cuả pháp luật bảo hiểm xã hội tới người sử dụng lao động, người lao động và người dân với nhiều hình thức như: truyền tải thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng Báo, Đài phát thanh, truyền hình phát sóng thông qua các chuyên mục “pháp luật và cuộc sống” thực hiện phóng sự, trả lời phỏng vấn; phát hành các ấn phẩm, panô, phát tờ rơi, tổ chức tập huấn nghiệp vụ, tổ chức các hội nghị đối thoại trực tiếp với người lao động, cơ quan, tổ chức trên địa bàn tỉnh. Đồng thời, thường xuyên tổ chức các đợt, các đoàn kiểm tra, thanh tra, khảo sát tình hình chấp hành pháp luật bảo hiểm xã hội ở từng đơn vị, doanh nghiệp, qua đó kịp thời chấn chỉnh, hướng dẫn người sử dụng lao động, người lao động chấp hành tốt hơn, đầy đủ hơn các quy định cuả luật. Chính vì vậy, công tác triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh đã đạt được những kết quả quan trọng. Thứ nhất, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội ở các loại hình đều tăng hàng năm. Trong đó, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc tăng từ 108.745 người năm 2016 lên 126.308 người vào thời điểm tháng 9/2019. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng từ 550 người năm 2016 lên 2.627 người vào thời điểm tháng 9/2019. Cụ thể:
STT Chỉ tiêu 2016 2017 2018 Tháng 9/2019
1 BHXH bắt buộc 108.745 117.938 123.108 126.308
2 BHXH tự nguyện 550 722 1.310 2.627
Thứ hai, tổng số thu bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm xã hội tự nguyện cũng tăng qua từng năm, cụ thể như sau:
Chỉ tiêu Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Ước năm 2019
BHXH bắt buộc 1.287.048 1.441.770 1.636.295 1.821.953
BHXH tự nguyện 4.193 4.439 5.684 23.496
Tổng cộng 1.291.241 1.446.209 1.641.979 1.845.449
Trong giai đoạn từ 2016 - 2019, mỗi năm giải quyết cho trên 125.000 lượt người hưởng bảo hiểm xã hội, trong đó có khoảng 1.100 người hưởng bảo hiểm xã hội hàng tháng; gần 9.000 người hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần; trên 110.000 lượt người hưởng chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức- phục hồi sức khỏe; cụ thể:
STT Loại đối tượng Đơn vị tính 2016 2017 2018 09 tháng năm 2019
1 Hàng tháng: Người 990 1.329 971 658
- Hưu trí Người 861 1.218 834 554
- Tuất Đ.xuất 118 106 129 93
- TNLĐ - BNN Người 11 5 8 11
2 Một lần Người 7.713 8.303 9.919 7.803
- BHXH một lần Người 7.005 7.459 9.181 7.254
- TC 1 lần khi nghỉ hưu Người 429 523 406 265
- TNLĐ một lần Người 56 52 63 67
- Chết do TNLĐ Người 06 - 8 07
- Tuất một lần Người 223 269 261 210
3 Ốm đau Lượt người 67.493 91.586 118.010 80.880
4 Thai sản Lượt người 16.018 18.788 21.900 16.003
5 DS PHSK Lượt người 4.624 4.208 4.661 2.622
Tổng số tiền chi giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội từ năm 2016 đến tháng 9/2019 là trên 3.708.816 triệu đồng, bình quân mỗi năm chi trên 927.204 triệu đồng; cụ thể:
STT Chỉ tiêu 2016 2017 2018 Đến tháng 9/2019
1 Chi BHXH cho đối tượng
do NSNN đảm bảo 127.167 127.177 131.496 102.141
2 Quỹ BHXH bắt buộc
do quỹ BHXH đảm bảo 678.444 760.080 949.577 809.189
- Quỹ ốm đau và thai sản 178.205 214.999 255.090 200.641
- Quỹ TNLĐ - BNN 3.145 3.220 4.215 4.095
- Quỹ hưu trí, tử tuất 497.094 541.861 690.272 604.453
3 Chi BHXH tự nguyện 3.091 5.302 7.870 7.282
Tổng cộng 808.702 892.559 1.088.943 918.612
Công tác chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội được chú trọng và tổ chức thực hiện kịp thời, đầy đủ với các hình thức chi trả theo quy định như: thanh toán trực tiếp, thanh toán qua ngân hàng, qua đơn vị sử dụng lao động, thông qua tổ chức cung ứng dịch vụ công là Bưu điện… Việc chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội, quản lý đối tượng nhìn chung ổn định, không có vướng mắc lớn xảy ra, những tồn tại trong công tác chi trả đã dần được chấn chỉnh, khắc phục; công tác quản lý đối tượng tiếp tục được tăng cường. Mặt khác, công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về bảo hiểm xã hội đã kịp thời phát hiện những sai phạm, xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý, chấn chỉnh những thiếu sót, vướng mắc của các đơn vị sử dụng lao động. Đồng thời, nâng cao nhận thức của đơn vị sử dụng lao động và người lao động về trách nhiệm và quyền lợi khi tham gia bảo hiểm xã hội. Nhờ đó, việc giải quyết các chế độ, chính sách về bảo hiểm xã hội cho người lao động đảm bảo kịp thời, đầy đủ; quỹ bảo hiểm xã hội được sử dụng đúng mục đích. Từ năm 2016 đến tháng 9/2019, đã tổ chức thanh tra, kiểm tra 354 đơn vị, ban hành 48 Quyết định xử lý vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm pháp luật bảo hiểm xã hội với tổng số tiền nộp về Kho bạc Nhà nước là 146.475.501 đồng.
Song, nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của Luật Bảo hiểm xã hội ở một số doanh nghiệp chưa cao, tập trung là ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hộ kinh doanh cá thể có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động dẫn đến việc thực hiện các quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, còn hạn chế. Tình trạng vi phạm Luật Bảo hiểm xã hội còn phổ biến, tính chất ngày càng phức tạp. Tình hình nợ đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội vẫn còn phổ biến, bao gồm nhiều loại hình doanh nghiệp, từ các doanh nghiệp nhà nước tập trung ở các ngành giao thông, xây dựng, các tập đoàn đang cơ cấu lại doanh nghiệp đến các đơn vị ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nợ bảo hiểm xã hội trong thời gian dài với số tiền lớn làm ảnh hưởng tới việc giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động. Cụ thể tình hình nợ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc hàng năm trên toàn tỉnh như sau: - Năm 2016: 23.730 triệu đồng, chiếm 1,9% số phải thu bảo hiểm xã hội bắt buộc. - Năm 2017: 30.995 triệu đồng, chiếm 2,29% số phải thu bảo hiểm xã hội bắt buộc. - Năm 2018: 24.719 triệu đồng, chiếm 1,5% số phải thu bảo hiểm xã hội bắt buộc. - Ước năm 2019: 18.948 triệu đồng, chiếm 1,04% số phải thu bảo hiểm xã hội bắt buộc. Vẫn còn tình trạng báo giảm người hưởng chưa kịp thời dẫn đến tình trạng phải thu hồi chế độ bảo hiểm xã hội hàng tháng; việc hướng dẫn, giải đáp thắc mắc của nhân viên Bưu điện về chế độ của người hưởng, thủ tục, chế độ chính sách còn hạn chế. Tỷ lệ chi trả các chế độ bảo hiểm xã hộicho người hưởng qua hệ thống tài khoản cá nhân chưa đáp ứng được yêu cầu nội dung Quyết định số 241/QĐ-TTG ngày 23/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với các dịch vụ công: thuế, điện, nước, học phí, viện phí và chi trả các chương trình an sinh xã hội.
Công tác phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan liên quan về quản lý doanh nghiệp, lao động như: Bảo hiểm xã hội, Thuế, Kế hoạch - Đầu tư, Lao động – Thương binh và Xã hội tuy đã có nhiều chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu trong công tác thanh tra, kiểm tra. Bên cạnh đó, tình hình sản xuất và kinh doanh của một số doanh nghiệp trong tỉnh những năm qua gặp nhiều khó khăn, giá cả nông sản không ổn định, một số doanh nghiệp đang trong giai đoạn tái canh vườn cây, dẫn đến không tuyển dụng lao động mà còn giảm lao động. Việc khai thác, chia sẻ cơ sở dữ liệu còn gặp nhiều khó khăn. Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện tăng hàng năm nhưng còn chậm, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện chủ yếu là những người đã có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, đóng tiếp bảo hiểm xã hội tự nguyện để đủ điều kiện hưởng lương hưu./.