(CTTĐTBP) - Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong các tác phẩm của mình, Bác có tới trên 400 bài nói, bài viết, câu chuyện về đoàn kết. Tư tưởng đại đoàn kết của Người là một tư tưởng cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù của dân tộc, của giai cấp.
Kế thừa và phát huy tư tưởng của Người, trải qua các thời kỳ cách mạng, quan điểm của Đảng ta về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Đảng ta luôn xác định: “đoàn kết” là giá trị cốt lõi, “đại đoàn kết toàn dân tộc” là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Đoàn kết là lực lượng mạnh nhất”, “Đoàn kết là sức mạnh vô địch”, “Đoàn kết là then chốt của thành công”. Điều này được Người đề cập trong nhiều bài nói, bài viết, câu chuyện. Trong câu chuyện “Cái đồng hồ”, cho chúng ta bài học: Tất cả các bộ phận trong chiếc đồng hồ đều có chức năng, nhiệm vụ riêng; dù lớn hay nhỏ đều là một phần quan trọng, không thể thiếu, tách rời, vì thiếu một bộ phận không thể trở thành chiếc đồng hồ.
Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Người chỉ rõ, thắng lợi của cách mạng là nhờ ở sức mạnh đạo đức trong sản xuất, chiến đấu, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người chỉ ra thực trạng một số ít cán bộ, đảng viên đạo đức phẩm chất thấp kém, do mang nặng chủ nghĩa cá nhân. Đó là những biểu hiện: không “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”, ngại gian khổ khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa, tự cao tự đại, coi khinh quần chúng, độc đoán chuyên quyền…. Đồng thời, Người nêu rõ, do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, mắc nhiều sai lầm.
Trong bài thơ “Hòn đá to” (một bài thơ phụ đề tranh cổ động, đăng trên báo Việt Nam độc lập, số 123, ngày 21/4/1942), Người đưa ra bài học triết lý, nhân sinh quan sâu sắc:
“Hòn đá to/ Hòn đá nặng/ Chỉ một người/ Nhắc không đặng.
Hòn đá nặng/ Hòn đá bền/ Chỉ ít người/ Nhắc không lên.
Hòn đá to/ Hòn đá nặng/ Nhiều người nhắc/ Nhắc lên đặng.
Biết đồng sức/ Biết đồng lòng/ Việc gì khó/ Làm cũng xong.
Đánh Nhật, Pháp/ Giành tự do/ Là việc khó/ Là việc to.
Nếu chúng ta/ Biết đồng lòng/ Thì việc đó/ Quyết thành công”.
Chúng ta có thể nhận thấy quan điểm của Người: Đoàn kết càng rộng rãi, chặt chẽ thì việc gì khó đến mấy làm cũng xong, thắng lợi càng lớn, càng vẻ vang. Và Người đã truyền đi thông điệp mạnh mẽ, mà ai trong mỗi chúng ta cũng đều thuộc: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.2011, tập 13, trang 119).
Trong Di chúc (1969), Người viết: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi trong mắt mình”. Theo Bác, đại đoàn kết phải dựa trên nguyên tắc tin dân, dựa vào dân. Vì “Trong bầu trời không có gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân”. Đoàn kết được Nhân dân sẽ tạo ra sức mạnh vô cùng to lớn: “Đoàn kết là vấn đề sống còn”, “Không đoàn kết thì suy và mất. Có đoàn kết thì thịnh và còn. Chúng ta phải lấy đoàn kết mà xoay vần vận mệnh, giữ gìn dân tộc và bảo vệ nước nhà” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, H.2011, Tập 6, trang 55).
Nguyên tắc đoàn kết trên của Người được bắt nguồn từ sự kế thừa chủ nghĩa yêu nước, truyền thống của ông cha: “lấy dân làm gốc”, “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”. Là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tinh hoa văn hóa nhân loại vào điều kiện cụ thể của nước ta: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, đoàn kết vô sản... Đồng thời, xuất phát từ tư duy thực tiễn, bài học kinh nghiệm, sự nghiệp hoạt động cách mạng của Bác.
Quan niệm của Người về đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng cách mạng và phải là điểm xuất phát, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối, chủ trương của Đảng.
Bác khẳng định: “Nhờ đại đoàn kết mà nhân dân Việt Nam đã đánh thắng chủ nghĩa thực dân, làm Cách mạng Tháng Tám thành công và đã kháng chiến đến thắng lợi. Nhờ đại đoàn kết toàn dân mà nước Việt Nam chúng tôi nhất định sẽ thống nhất” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, H.2011, tập 11, trang 272).
Trong phát biểu tại lễ ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam (03/3/1951), Hồ Chí Minh tuyên bố trước toàn dân tộc: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam đại thể gồm trong 8 chữ vàng: “ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”. Và cho đến khi viết Di chúc (đoạn cuối cùng của Di chúc), Người vẫn tin tưởng tuyệt đối và kỳ vọng lớn lao vào sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Từ tư tưởng, quan điểm của Người, Đảng ta đã xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh của mọi thành công. Trong đó, có cả nguyên tắc “đoàn kết thống nhất trong Đảng” mà Người đã từng nêu: Phải thực hiện và mở rộng dân chủ nội bộ để cán bộ, đảng viên có thể tham gia bàn bạc đến nơi đến chốn những vấn đề hệ trọng của Đảng; phải thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình với tinh thần trung thực, chân thành, thẳng thắn, tự nghiêm khắc với mình và phải có tình yêu thương đồng chí; phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và bao nhiêu thứ tệ nạn từ chủ nghĩa cá nhân mà ra. Đảng phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.
Quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã đem lại những thành tựu to lớn. Ví như: Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954); Điện Biên Phủ trên không (1972); Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975) kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ 21 năm chống Mỹ, thống nhất đất nước; công cuộc đổi mới kinh tế đất nước năm 1986; Việt Nam tuyên bố hoàn thành mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về xóa bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực và thiếu đói (2006), hay chiến thắng đại dịch Covid-19 trong những năm gần đây…
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Người, Đảng ta đã tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, kiên trì và nhất quán quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử, khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra chế độ xã hội mới, là chủ nhân của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Điều này đã được minh chứng, ngay sau đại thắng Mùa Xuân năm 1975, ngày 24/5/1976, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra quyết định thống nhất các đoàn thể nhân dân và các tổ chức Mặt trận dân tộc trong cả nước với tên gọi là “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. Từ đó, đã đánh dấu bước phát triển lớn mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trên phạm vi cả nước, mở ra một thời kỳ hoạt động mới của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, góp phần tích cực vào công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của dân tộc.
Tại Đại hội IV (12/1976), Đảng ta nhấn mạnh: “Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”. Tiếp đó, tại Đại hội V (3/1982), Đảng khẳng định: Thành công rực rỡ của Đảng và nhân dân ta đã nhanh chóng thống nhất đất nước về mặt nhà nước, triển khai thực hiện nhiều chính sách thúc đẩy quá trình thống nhất về mọi mặt, tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc.
Tại Đại hội VI (12/1986), Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc” xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động”. Tại Đại hội VII, Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước, trong đó nhấn mạnh 2 bài học kinh nghiệm về đoàn kết dân tộc: (1) Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân…(2) Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Đến Đại hội XI (01/2011) chỉ rõ: Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân...”.
Đại hội XII (01/2016), Đảng tiếp tục nhấn mạnh yêu cầu trong giai đoạn cách mạng hiện nay là phải “tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Tại Đại hội XIII (01/2021), Đảng bổ sung thêm nội dung, phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm” của nhân dân trong toàn bộ quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc; sự lãnh đạo của Đảng là ngọn cờ quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc phấn đấu vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.